• Năm 25 tuổi

    hoang-hai-thuy-25-tuoi.jpg

    Hoàng Hải Thủy, năm 25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định, Sàigòn, Năm 1957.
  • Thể Loại

  • Được yêu thích …

  • Bài Cũ

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 11)

Thời gian qua, những ngày như lá, tháng như mây – Thơ Thanh Nam Si-a-tồ -khi tuổi đời sáu bó lẻ mấy que tôi mới thấy những lời người ta nói như thế về những nàng Kiều là không đúng. Bằng chứng rõ ràng không thể cãi cọ được là cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nữ minh tinh Kiều Trang. Tên nàng cũng là Kiều đấy nhưng đời nàng vẫn sáng choang như gương Tàu. Thử hỏi có em Ngọc Côn, Kim Lệ, Huỳnh Hoa nào có cuộc đời an nhàn mọi mặt như nàng Kiều Trang được công an Việt cộng nhắc đến một cách kính nể đầy tính nâng bi trong quyển NTBKCB? Hai nữa, cần gì cứ tên Kiều Nọ, Kiều Kia mới vất vả năm bẩy đời chồng, ba bốn chục đời nhân tình, lúc thì áo xanh, lúc thì áo hồng. Số em có nhiều đàn ông là em có nhiều đàn ông, không phải là vì cái tên Kiều của em. Vô tư mà nói cuộc đời em Kiều Thúy nhiều lúc đoạn trường thật nhưng cũng có nhiều lúc sáng giá đền bù đã lắm đấy chứ? Sao chỉ nhắc đến những lúc nàng bị Mã Giám Sinh xơi tái, Sở Khanh bỏ rơi, Tú Bà đánh đòn, Hoạn Thư bắt hầu rượu, gảy đàn kìm, Hồ Tôn Hiến gỡ gạc mà không nói đến lúc nàng đường đường ngồi ghế Chánh án phu nhân. Khi ấy nàng vinh quang biết chừng bao? Nàng ơn đền, oán trả nặng nề, thẳng tay, Hoạn Thư quỳ mọp dưới sân, Thúc Kỳ Tâm người cũ không những chỉ run như cầy sấy mà còn sợ đến són đé ra quần. Lại còn Tú Bà rập đầu lậy côm cốp như chày giã gạo. Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh nhìn thấy Tử thần vác lưỡi hái lù lù ngay trước mặt. Ba anh này lúc cuối đời mới ăn năn thì sự đã rồi, rất có thể lúc ấy ba anh nghĩ; ” Mèn ơi.. Biết sự đời như thế này thì lúc ấy bà có cho em cũng chẳng để vào làm chi…” Về mặt giá trị tính theo vàng Kiều Thúy có giá nhất không những chỉ trong cõi đời Gia Tĩnh triều Minh mà là ở mọi cõi đời, nhất là ở cõi đời này hôm nay.. Đằng nào cũng mất, chẳng mất trước thì mất sau, mất mà có 400 lượng vẫn hơn là mất mà hổng có lượng nào, hoặc bán mà giá chỉ có năm chỉ.

Vì không phải là những văn nghệ sĩ chân chính nên hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên – dù có là đại tá đi nữa – tác giả “Những tên biệt kích cầm bút” đã cho nhân vật Hoàng Hải nói:

– …Tôi đã treo bút . Viết cái gì bây giờ? Viết để làm gì? Chẳng lẽ mình lại là độc giả duy nhất của chính mình?

Vật bất kỳ bình tắc minh. Khi đau khổ chúng ta kêu, rên, khóc ti tỉ. Khi sung sướng chúng ta kêu, rên, cười toe toét. Văn nghệ sĩ cũng là người nên khi đau khổ, sung sướng văn nghệ sĩ cũng kêu, rên, khóc cười như bất cứ ai. Song vì văn nghệ sĩ là… văn nghệ sĩ nên khi buồn đau, vui sướng văn nghệ sĩ còn sáng tác ra những cái gọi là tác phẩm văn nghệ. Chẳng hạn các thi sĩ mần thơ, nhạc sĩ mần bài ca, văn sĩ viết truyện ngắn, truyện dài. Nói cách khác người thường khi đau buồn chỉ khóc, vui sướng chỉ cười, văn nghệ sĩ ngoài khóc cười như đã nói còn có sự cần thiết bức bách phải cho ra đời tác phẩm văn chương. Sự cần thiết ấy là bắt buộc, không mần không được. Nó như nhu cầu về sinh lý: ăn dzô thì phải tống ra. Chỉ có đầu dzô mà không có đầu ra là chết năm bẩy cửa tứ. Vì vậy văn nghệ sĩ nào nói: “… Viết cái gì? Viết để làm gì? Viết cho ai…?” là văn nghệ sĩ rởm. Bất bình tắc minh. Không bình thường thì kêu lên. Khi xúc động đập vào trái tim người nghệ sĩ, anh ta bắt buộc phải mần thơ nếu anh ta là thi sĩ, mần nhạc nếu anh ta là nhạc sĩ, viết truyện nếu anh ta là văn sĩ. Không mần thì anh sẽ mặt mũi bần thần, ngẩn ngơ, ăn nói vô duyên. Nói rõ hơn và hình tượng dễ hiểu hơn là nếu không sáng tác văn nghệ sĩ sẽ bị táo bón tinh thần rất nặng.

Vì vậy nếu là văn sĩ anh bắt buộc phải viết lên giấy những xúc động trong tim anh, trong hồn anh. Anh không thể dửng dưng, lửng lơ con cá vàng nói: “Viết làm chó gì? Viết cho ai đọc? Không lẽ viết để mình đọc ư?” Anh có thể nghĩ: “Viết ra nó tóm được là bỏ mẹ. Không cần chửi chúng nó hay kêu gọi ai thủ dao phay đứng chờ ở đầu ngõ thấy thằng công an Việt Cộng nào đi qua là chém cho nó năm bẩy nhát. Chỉ cần mình than buồn, than khổ thôi là đủ để nó đem mình đi cất năm bẩy niên. Xa vòng tay gầy lạnh của vợ hiền. Chán lắm…” Anh có thể tự khuyên những câu đầy tính minh triết xanh rờn: “Chịu đi. Đừng có dại mà viết. Bút sa gà chết. Với Việt cộng thì bút sa người chết. Quanh quẩn trong xó nhà như vầy năm bữa, nửa tháng may ra cũng có tô phở chợ, lâu lâu được vợ an ủi, khuyến khích một lần. Thơ mí phú làm ký gì. Vạ vào thân….” Anh nghĩ thì quá khôn, nhưng anh nghĩ dzậy mà anh thường không mần như dzậy.

Những văn nghệ sĩ trong cõi đời này còn có cái tật nữa là ngoài việc mấy ổng dùng buồn vui của mấy ổng làm thành tác phẩm, mấy ổng còn buồn vui vì những buồn vui của người khác. Và mấy ổng cũng có thể vì buồn vui của người khác mà làm thành tác phẩm nghệ thuật. Mấy ổng được người đời yêu mến vì cái tài ấy.

Năm 1994 ở Thành Hồ, tôi xem cuộn băng Vidéo Văn Phụng – Châu Hà, thấy MC Nguyễn Ngọc Ngạn hỏi Văn Phụng trong trường hợp nào nhạc sĩ sáng tác bản “Tạ Từ Đêm Mưa“? Văn Phụng trả lời:

– Đêm ấy chơi nhạc ở Đăng-xinh Văn Cảnh. Khi ra về tôi thấy một cặp tình nhân chia tay nhau. Cảnh họ quyến luyến nhau trong đêm mưa gợi hứng cho tôi làm nhạc…

MC Nguyễn Ngọc Ngạn:

– Như vậy là anh giả vờ buồn…

Nhạc sĩ Văn Phụng không nói gì.

Khi gặp Văn Phụng ở thành phố Arlington, nơi có Rừng Phong thu vẫn nhuốm mầu quan san của Công tử Hà Đông, tôi hỏi anh:

– Anh nhớ trong Vidéo của anh Nguyễn Ngọc Ngạn hỏi anh về bản Tạ Từ Đêm Mưa chứ? Khi Nguyễn Ngọc Ngạn nói “anh giả vờ buồn…” sao anh không nói gì cả? Anh thấy người khác chia ly nhau người ta buồn. Anh không chia ly ai cả nhưng anh buồn cái buồn của những người phải xa nhau, anh làm bản Tạ Từ…. Làm sao anh có thể giả vờ buồn mà làm được bản nhạc buồn đến thế…?

Tôi suốt một đời đi ở nhà thuê. Bi giờ về già hết lộc rồi nghĩ lại thật xấu hổ. Chẳng gì cũng mang danh ký giả, văn sĩ, có mấy chục bộ truyện được in, nhân viên Sở Mẽo! Mà nếu vợ bị tra tấn tàn nhẫn sống dở chết dở bẩy ngày cũng không xì ra được nửa chỉ vàng nào để hối lộ, kim cang, hột xoàn lại càng không có. May mắn cho vợ chồng tôi là mẹ tôi có một cái nhà nhỏ vẫn bỏ không trong cái gọi là cư xá Tự Do ở giữa Ngã Ba Ông Tạ và Ngã Tư Bảy Hiền. Ba tháng sau ngày oan nghiệt vợ chồng tôi về căn nhà đó ở. Không có căn nhà này thì chúng tôi còn vất vả nhiều. Và chúng tôi đã sống lúi cúi với nhau, đã yêu thương, nhớ thương và chờ đợi nhau trong căn nhà nhỏ ấy đúng mười chín mùa lá rụng lẻ sáu tháng mây bay. Hai lần Công An Thành Hồ cho xe bông đến trước cửa căn nhà ấy rước tôi đi, hai lần tôi từ nhà tù cộng sản sống sót trở về đó.

Cư xá Tự Do có hai khu do Gia Cư Liêm Giá Cuộc xây lên bán trả góp cho dân. Khu ngoài là khu vi-la song lập đắt tiền. Khu trong là khu nhà có gác lửng rẻ tiền. Sau những trận mưa đầu mùa con đường trong khu nhà tôi nước ngập đến đầu gối. Trong căn nhà tối ấy những chiều buồn quá không có việc gì làm, không biết đi đâu, đến nhà ai, tôi đứng sau khung cửa sổ nhìn vẩn vương ra con đường nhỏ. Xế cửa nhà tôi có một thiếu phụ tuổi trạc ba mươi, ông chồng là đại úy đi cải tạo, nàng thường bồng đứa con nhỏ đứng trong khung cửa sổ nhà nàng nhìn vơ vẩn ra đường. Tôi biết nàng buồn. Tôi cảm được nỗi buồn của nàng. Thêm vào đó là nỗi buồn của tôi. Bên nhà tôi – năm ấy tôi bốn bó lẻ hai, ba que – tôi cũng buồn quá. Không thể chịu được tôi mần thơ:

Buồn

Như cánh lá vàng sau trận cuồng phong
Anh rạt về đây, xóm hẹp, đường đông.
Nhà em, nhà anh cách hai thước ngõ
Những chiều mưa buồn nước ngập như sông
Anh đứng võ vàng sau khung cửa sổ
Như người tù nhìn đời qua chấn song.
Em đứng mỏi mòn bên dàn ván gỗ
Như người chinh phụ ôm con đợi trông.
Anh đứng trông mây, em đứng trông chồng
Vắng chồng con bế, con bồng em mang.

Cái bống là cái bống bang
Mẹ bống yêu bống , bống càng làm thơ…
Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ
Vương trên khung cửa bây giờ tang thương.
Đìu hiu cuối ngõ, cùng đường
Bên anh tuyệt vọng, đoạn trường bên em.
Ngày lại ngày, đêm lại đêm
Ngày rơi tàn tạ, đêm chìm phôi pha
Buồn từ trong cửa buồn ra
Buồn từ ngã bẩy, ngã ba buồn về
Ta đang sống, ta đang mê
Hay ta đang chết não nề, em ơi…!

Những tháng cuối 1975 đầu 1976 ngẩn ngơ giữa mấy rừng cờ đỏ, quá buồn tôi làm thơ. Tôi chép những bài thơ này vào một tập. Tháng 10 năm 1977, công an Thành Hồ đến nhà bắt tôi, vớ được tập thơ này. Khi thẩm vấn tôi, Ba Trung. tức Huỳnh Bá Thành, tức họa sĩ Ớt, nhật báo Đồng Nai Chủ nhiệm Hồng Sơn Đông, hỏi mỉa tôi:

– Bây giờ anh đã được làm người tù nhìn trời qua chấn song, anh không còn phải tưởng tượng nữa, anh thấy sao?

Và Ba Trung nói về bài thơ Buồn của tôi:

– Các anh sĩ quan Ngụy phải đi cải tạo là cần thiết. Cứ để mấy ảnh ở nhà sao được. Vợ mấy ảnh có mong chồng thì cũng phải chịu thôi. Trong khi nhân dân cả nước đang phấn khởi hồ hởi tiến lên xã hội chủ nghĩa, một mình anh kêu than buồn khổ đâu có được. Bài thơ buồn của anh có thể ảnh hưởng xấu đến người khác, làm người khác buồn lây, có hại đến việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Ba Trung, họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành, tác giả truyện Vụ Án Hồ Con Rùa có hai ba tiểu thuyết được làm thành phim. Từ năm 1990 Ba Trung giữ chức vụ quyền Tổng biên tập Tuần báo Công An Thành Hồ. Loại báo này đúng ra chỉ là báo phổ biến tin tức nội bộ cơ quan công an, nhưng bọn cớm cộng làm thành báo bán để kiếm lời. Cớm cộng có đặc quyền khai thác hồ sơ những vụ giết người, hiếp dâm, ăn cắp, ăn cướp v.v… – đặc quyền và toàn quyền – nhiều người dân mua, đọc Tuần báo Công An, trong số này có cả tôi, chỉ để đọc những vụ hiếp dâm tàn bạo, những vụ giết người kinh khiếp, những vụ đảng viên ăn cắp công khai, làm bậy bất chấp Đảng với Nhà Nước, đọc tin về những ổ mãi dâm, ma túy, hàng giả, hàng lậu, vidéo sex v.v… Có thể nói tờ tuần báo Công An Thành Hồ là tờ báo bới móc, phơi bầy những cái xấu của xã hội XHCN một cách ác ôn nhất.

Trong một xã hội mà những tờ báo chuyên đăng những tin tức hiếp dâm, giết người, cướp trộm, sa đọa bán chạy, có nhiều người đọc chứng tỏ cái xã hội đó thối nát tàn tệ, bẩn thỉu quá đỗi. Bọn Tuần báo Công An Thành Hồ không chút hổ thẹn vì báo của chúng chỉ bán được nhờ đăng những vụ hiếp dâm, giết người. Không những không biết hổ thẹn chúng còn vênh váo khoe khoang là báo của chúng bán chạy nhất.

Ba Trung là cán bộ công an thẩm vấn tôi trong lần tôi bị bắt lần thứ nhất – 1977-1979 – Lần ấy tôi chưa “phạm tội” gì nhiều, tôi chỉ viết một số bài kiểu Tạp ghi Văn Nghệ Văn Gừng gửi cho một nữ độc giả của tôi bỏ nước chạy lấy người sang Xê Kỳ – một số bài viết có thể gọi là vô thưởng vô phạt về những ngày sống u buồn của tôi ở Thành Hồ, tả cảnh nón cối, dép râu, tóc bím, mông đít to như cái thúng, lính cụ Hồ đực rựa hai mươi nhăm, ba mươi tuổi nắm tay nhau đi rung răng, rung rẻ ngay trên đường Lê Lợi, Tự Do, cùng một số bài thơ than thân, trách phận, thương khóc kẻ ở, người đi kiếp sau chắc mí gặp nhau não nùng, ai oán. Người độc giả của tôi gửi những bài viết của tôi đến các báo Việt ở hải ngoại. Trong số những báo đăng loạt bài ấy của tôi có Tạp chí Đất Mới ở Seattle, tạp chí Thời Tập của Viên Linh, Nhất Việt của Du Tử Lê.. vv..

Cộng sản thù ghét nhất những người sống dưới chế độ chúng mà dám viết những bài tả cuộc sống khốn khổ, khốn nạn của mình và của nhân dân gửi ra nước ngoài. Với cộng sản “cứ viết gửi ra nước ngoài” là có tội rồi, bất kể bài viết có nội dung ra sao. Có lần thẩm vấn tôi Ba Trung nói với tôi:

– Anh biết viết bài gửi ra nước ngoài là nguy hiểm nhưng anh cứ viết, cứ gửi…

Và Ba Trung nói đến chuyện tôi được “mời cộng tác”

– Khi các văn nghệ sĩ Sàigòn phải đi cải tạo, chúng tôi đã để cho anh được yên ở nhà. Không những chỉ để anh yên, chúng tôi còn mời anh cộng tác. Anh không làm thì thôi, anh ở yên đi. Anh còn chống chúng tôi nữa. Chúng tôi bắt buộc phải bắt anh thôi. Tiếc cho anh. Chúng tôi có đối xử gì nặng tay với anh đâu? Anh vẫn còn được ngồi ngang hàng với Vũ Hạnh…

Trước hết việc “được ngồi ngang hàng với Vũ Hạnh” làm tôi xấu hổ. “Ngồi ngang hàng” đây là việc sau khi một số văn nghệ sĩ Sàigòn được công an Thành Hồ ưu ái cho xe bông đến tận nhà rước đem đi cất kỹ vào tháng Ba, tháng Tư năm 1976. Quần hùng đi tù thật đông, không sao nhớ hết và cũng không thể kể hết. Sau đợt bắt tập thể ấy cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố HCM tổ chức hai khóa bồi dưỡng chính trị cho những anh chị chưa bị bắt. Tôi đi dự Khóa Bồi Dưỡng Hai như tôi đã kể. Ý Ba Trung muốn nói là trong những cuộc hội họp như thế tôi vẫn được ngồi ngang hàng với Vũ Hạnh. Khi nghe Ba Trung nói như thế tôi ngồi yên, tôi không nói cho anh ta biết là tôi xấu hổ, tôi cay đắng mỗi lần tôi phải vác cái mặt mo của tôi đến ngồi nghe bọn cán cộng ưu ái lên lớp.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 12)

Và đây là chuyện tôi được Việt Cộng “mời cộng tác”:

Khoảng ba, bốn tháng sau ngày 30 Tháng Tư tôi được gặp anh Ba Trinh, một trong những cán bộ phụ trách biên tập tờ nhật báo Sàigòn Giải Phóng. Những năm 1960 Ba Trinh có đến tòa soạn nhật báo Sàigònmới nên anh biết tôi, rồi anh bị bắt, thả ra, bị bắt lại hai ba lần, lần cuối cùng anh từ Côn Đảo về miền Bắc năm 1972, theo thỏa hiệp trao đổi tù binh giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Cộng, Tháng 5 anh từ Hà nội vào Sàigòn. Ba Trinh hơn tôi khoảng mười, mười lăm tuổi. Anh nói với tôi:

– Chúng tôi cần loạt bài phóng sự về cuộc sống của bọn tướng tá Ngụy, chúng tôi không viết được loại phóng sự ấy. Cậu có biệt tài về loại đó, chúng tôi mời cậu viết cho chúng tôi. Nhưng nếu viết cậu đừng để tên cậu. Cậu mà dùng tên cậu thì ngay cả các bạn cậu cũng chửi cậu. Cậu dùng một tên khác. Mai đây chúng tôi có thể nói với các ông ấy người viết loạt bài đó là cậu. Sẽ đỡ cho cậu nhiều lắm. Và cũng có ít tiền giúp cậu đỡ khó khăn trong lúc này.

Tôi ừ ào cho qua nhưng tôi không viết. Khi còn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa tôi có thể viết những phóng sự hoạt kê châm biếm bọn có quyền thế, có địa vị, bọn giầu tiền, như tôi đã từng viết những phóng sự Bà Lớn, Yêu Tì đăng trên nhật báo Ngôn Luận những năm trước 1963, nhưng bây giờ Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa của tôi vừa bị diệt, những bộ trưởng chính phủ, tướng tá, tỉnh trưởng, thẩm phán, dân biểu của tôi không chạy ra nước ngoài được nay đang bị tù đày, họ đang khổ cực hơn tôi, vợ con họ khổ cực hơn vợ con tôi, dù sao họ cũng là anh em tôi, có xấu xa đến mấy đi chăng nữa họ cũng là anh em tôi, trong tình cảnh khốn khổ, nhục nhã chung này tôi không thể viết chửi bới họ.

Chuyện “cộng tác” thứ hai: Sau Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai chừng hai tháng tôi nhận được giấy gọi lên Sở Công An Thành phố. Tôi hồi hộp đến Nha Cảnh Sát Đô Thành của ta. Một anh công an trẻ tuổi, có vẻ là người Sàigòn, tiếp tôi trong cái vi-la ngay bên cạnh trụ sở. Anh ta nói:

– Những người có tội như Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh đã bị bắt. Anh không phải là không có tội nhưng chúng tôi thấy anh tội nhẹ nên không bắt anh song anh có bổn phận phải cộng tác. Chúng tôi cần biết về tình hìng các văn nghệ sĩ Sàigòn, họ làm gì, nghĩ gì, họ sống ra sao. Không phải anh cứ báo cáo là chúng tôi bắt họ đâu, anh có thể cho chúng tôi biết những khó khăn của anh em văn nghệ sĩ để chúng tôi giúp họ.

Những người công an bắt tôi làm việc cho họ không cho tôi biết tên họ — tôi chỉ biết tên có một chị: chị Chanh, Việt Cộng nằm vùng, từng hành nghề buôn cây để có dịp vào rừng liên lạc với đồng bọn. Họ hẹn tôi một, hoặc hai tuần đến gặp họ và báo cáo một lần. Những lần họ gặp tôi đều ở những vi-la tư nhân họ chiếm được. Tôi chẳng có gì để báo cáo với họ cả. Sau chừng ba tháng dằng co như thế một sáng tôi nói với vợ tôi:

– Anh không thể làm chỉ điểm cho bọn này. Nếu anh báo cáo về anh em mình anh không thể nhìn mặt anh trong gương. Anh không làm đâu. Nó muốn bắt anh thì bắt.

Alice đồng ý với tôi.

Lần gặp sau tôi đưa cái thư “Kính gửi ban lãnh đạo..”, trong thư tôi viết tôi không có điều kiện cộng tác với Sở Công An, việc gặp tôi chỉ làm mất thì giờ của anh chị em công an, xin lãnh đạo cho tôi được nghỉ; tôi có thể dịch các tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp, nếu cơ quan cần người dịch thuật tôi xin làm vv..

*****

Tháng Ba, tháng Tư năm 1976 tôi chờ đợi tôi cũng bị bắt như các bạn tôi. Nhưng tôi đã không bị. Tôi xin nói rõ – và nói đi nói lại nếu cần – tôi không muốn được đi tù một ly ông cụ nào cả. Anh Triều Đẩu từng giải cho tôi biết Tử Vi của tôi không có sao Quả Tạ, tức là không có số ở tù. Tôi chỉ tỏ ra hung hăng con bọ xít, du đãng, du côn, du thủ, du thực, hào huê, phong tình trong những chuyện tôi viết mà thôi. Trong đời thực tôi lành hơn cục đất thó. Và cũng hơn một lần tôi đã viết: Sau ngày oan nghiệt tôi quanh quẩn trong xó nhà, ngày ngày quét nhà, lau nhà, đổ rác, giặt quần cho vợ, thuốc lá Vĩnh Hảo Bốc En Xe Ông Già Le Lưỡi Liếm… giấy vấn thoải mái, lâu lâu có chầu rượu đế, lạc rang, hột vịt lộn, nghêu sò ốc hến vỉa hè… Tất nhiên là so với cuộc sống trước tháng Tư năm 1975 thì tối tăm ảm đạm thật đấy, nhưng nếu so với những cuộc sống trong những nhà tù Việt cộng thì chắc chắn còn đỡ khổ hơn nhiều.

Không phải là Alice không giặt được quần áo của nàng hay nàng bắt chồng nàng phải giặt, chỉ vì anh Con Trai Bà Cả Đọi, người anh em cùng vợ với chàng Công Tử Hà Đông, suốt ngày đêm chẳng có việc gì mần cho đỡ buồn nên anh tranh làm cái việc giặt quần áo. Có những lần ngồi giặt anh lơ mơ nhớ lại ngày xưa anh viết những bài chửi bới thiên hạ dưới hai cái tên Gã Thâm, Công Tử Hà Đông, anh thường rủa: “Cho thằng đó về nhà giặt quần áo cho vợ”. Không biết trong số những người bị anh rủa có ai phải về nhà giặt quần cho vợ hay không. Anh chỉ biết anh bị Việt cộng nó cho về xó nhà giặt quần cho vợ dài dài, mệt nghỉ…

Vẫn biết cuộc sống quanh quẩn trong xó nhà làm những việc chân tay lặt vặt, lâu lâu được rờ đôi mông teo của vợ hiền… tuy tăm tối cũng còn khá hơn cuộc sống trong tù nhiều, nhưng khi các anh em tôi bị bắt tù tôi không bị như anh em, tôi thấy kỳ quá. Mỗi lần đi ra, di dzô cư xá tôi cứ cúi mặt xuống mà đi. Tôi có mặc cảm người ta nhìn tôi với ánh mắt muốn hỏi: “… Bao nhiêu văn nghệ sĩ bị bắt, sao tên này không bị? Nó làm gì mà bọn Việt cộng không bắt nó?” Nếu bà con cô bác có ai théc méc đặt câu hỏi như vậy thì cũng đúng thôi: việc tôi bị Việt cộng bắt không có gì lạ, việc VC không bắt tôi mới là lạ. Tôi nói lại cho rõ: ngày ấy, tháng ấy, năm ấy tôi không mong tôi cũng bị bắt như anh em, tôi chỉ thấy anh em bị bắt tôi không bị sao kỳ quá…

Những năm 1976, 1977 những anh con trai bà Cả Đọi không bị đi cải tạo ở nhà làm việc giữ nhà, giặt giũ, nấu cơm, đổ rác là chuyện thường – đàn bà đi chợ trời, chợ đất, mua đi, bán lại kiếm sống – ngồi buồn trong xó bếp căn nhà tối tăm trong cư xá Tự Do mãi cũng chịu không nổi, có những chiều nấu cơm xong, tôi tắm rửa sạch sẽ, ra đầu cư xá ngồi chờ Alice đi chợ trời Hàm Nghi về bằng xe ô-tô-buýt, tôi mần bài Sẩm Xoang:

Gió lay cành trúc, gió đập cành tre
Thuyền tình anh vẫn le te đợi nàng
Gió lắc cành vông, gió lật cành bàng
Thuyền tình anh chẳng đợi nàng thì anh đợi ai?
Ối cô nàng ờ… Ới cô nàng ơi… Anh nói để cô nàng hay
Chứ mà… Cô nàng nghe anh hỏi cô nàng này
– Lương Mẽo được mấy trăm đồng?
Dầm sương, dãi tuyết má hồng nàng phai.
Đi lắm thì vú nàng quai
Chẳng thà ăn sắn, ăn khoai thành Hồ.
Nàng đói thì nàng bán đồ
Để anh cơm nước, chăm lo cửa nhà.
Riêu cua nàng chan cơm cà
Nàng mà đau bụng thì đà có anh
Nàng còn xẻo đất trồng hành
Anh trui cá lóc nấu canh tập tàng.

Cá lóc còn ở trong hang
Cái rau tập tàng còn ở ruộng dâu
Anh về anh chuốt cần câu
Ngoắc con cá lóc nấu rau tập tàng…

Với những bằng chứng như trên chi tiết hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên cho nhân vật Hoàng Hải trong “Những tên biệt kích cầm bút” nói với bà chủ vi la Kiều Trang:

– …Tôi đã treo bút. Viết ký gì bi giờ? Viết để làm gì???… Là hổng có đúng sự thật.

*****

Quý bạn vừa đọc một số trang trích từ quyển “Những tên biệt kích cầm bút” do hai đại tá công an Việt cộng viết ở Thành Hồ về nhóm anh em chúng tôi. Chương truyện này là cuộc họp mặt nhân lễ Giáng Sinh năm 1983, Trần Tam Tiệp năm ấy là Tổng thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, gửi một khoản tiền về cho chúng tôi nhân Lễ Noel có một bữa ăn gặp gỡ. Chúng tôi mượn vi-la của Nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh ở Cư Xá Lữ Gia làm nơi tổ chức bữa ăn họp mặt. Vi-la này năm ấy do bà chị của Kiều Chinh làm chủ. Riêng Trần Tam Tiệp được hai anh Nam Thi – Minh Kiên, Tổng và Phó Biên tập tuần báo Công an thành Hồ gọi nguyên tên là Trần Tam Tiệp. Tên anh em chúng tôi đều bị cắt bớt một phần: Doãn Quốc Sĩ trở thành Đoàn Quốc, Dương Hùng Cường trở thành Dương Hùng, Khuất Duy Trác là Khuất Duy và tôi là Hoàng Hải.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 13)

Hoàng Hải, anh Con Trai Bà Cả Đọi là nhân vật thứ hai được diễn tả trong NTBKCB sau Trần Tam Tiệp. Hình ảnh của anh có vẻ hào hoa phong thấp, nhưng cái hình ảnh đó hổng thật, hổng đúng tí nào. Hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên hoàn toàn phịa ra hình ảnh Hoàng Hải những năm 81, 82 tả tơi giữa lòng thành Hồ mà vẫn “hút thuốc píp Half and Half…”

Thời còn bị Mỹ Ngụy kìm kẹp anh con trai bà Cả Đọi quả thực có nghiện thuốc lá Mẽo – thời ấy anh nghiện nhiều thứ. Anh phì phèo thuốc điếu từ những năm 1950, năm anh mới mười tám, đôi mươi, mắt sáng, môi hồng, tâm hồn trắng như tờ giấy trắng trái tim trong suốt như nước hồ thu, thời anh chưa biết rõ về cái gọi là chi tiết người đàn bà khác người con gái ở cái gì – Thoạt đầu anh rít mỗi ngày vài điếu Cotab – Trước năm 1954 Công tử Nam kỳ hút Ách Chuồn Golden Club, Grand Prix, Công tử Bắc kỳ hút Cotab. Đến năm 1958 anh đổi sang Lucky Strike, rồi Pall Mall, Philip Morris Vàng dài dài cho đến ngày tan hàng.

Anh là người đưa câu “Lucky Ba Hàng Chữ” vào phóng sự. Nhiều người Sègòong ngày xưa cũng hút Lucky nhưng không biết “Lucky Ba Hàng Chữ” là gì, tại sao lại là “Ba Hàng Chữ”. Số là Lucky Strike có ba loại: Lucky Một Hàng Chữ – đúng ra là hổng có hàng chữ nào – là loại thuốc phát không cho binh sĩ Mẽo, giống như thuốc điếu Quân Tiếp Vụ của quân đội ta ngày xưa, phẩm chất loại này tồi, bán rẻ. Lucky Hai Hàng Chữ là loại thuốc bán cho thường dân, có in hàng chữ Lucky Strike ở đáy bao. Lucky Ba Hàng Chữ, ngoài hai hàng chữ Lucky Strike còn thêm hàng chữ “For Export Only”. Loại thuốc này chỉ dành để xuất ra ngoại quốc. Vì cạnh tranh loại thuốc này phải làm với phẩm chất cao. Vì vậy Lucky Ba Hàng Chữ giá đắt nhất. Năm 1960, thời Việt Nam Cộng Hòa còn cực thịnh, giá Lucky như sau: Lucky Một Hàng 25 đồng, Lucky Hai Hàng 28 đồng, Lucky Ba Hàng 30 đồng. Thời này giá vàng 3000 đồng một cây.

Anh Con Trai Bà Cả Đọi chẳng có qua một tí tài nào, kể cả những tài vặt, xong về việc hút thuốc lá thì anh có thể khiêm tốn tự phong anh thuộc loại cao thủ. Những năm 1960 – 1975 trung bình mỗi ngày anh hút 50 điếu. Mười, mười một giờ tối khi vào giường đọc sách anh rít khoảng năm, sáu điếu mới tắt đèn ngáo. Ngoài 50 điếu thuốc lá mỗi ngày anh còn hút pipe, xì gà. Nón cối, dép râu ngơ ngáo vào Sàigòn, anh – cũng như những người Sègoòng nghiện thuốc lá – đi mua thuốc Vĩnh Hảo, Lạng Sơn về vấn lấy theo kiểu Bốc En Xe – bốc thuốc rời ra xe lại – và Ông Già Le Lưỡi– le lưỡi liếm giấy vấn thuốc. Tám năm ngồi rù trong tù anh hút thuốc rê liên tục từ năm giờ sáng đến mười giờ đêm.

Chẳng hay hớm gì việc hút xách. Chỉ là vì ngay những trang đầu NTBKCB đã thấy cớm cộng tả mình phây phây hút Half and Half giữa lòng Thành Hồ Xã hội Chủ nghĩa toàn dân đói rời, đói rạc, đói rệu, đói rã nên cảm khái đi một đường hoài niệm ngày xưa. Ngày xưa ấy là những năm 1960-1975 anh Con Trai đang ở số tuổi phong độ nhất đời anh. Anh làm nhân viên Nhật báo Sàigònmới, nhật báo có số báo bán cao nhất lịch sử Việt Nam kể từ ngày Việt Nam có nhật báo. Những năm 1960 Nhật báo Sàigòn Mới có số bán nhất Nam kỳ, nhất Trung kỳ, nhất Đông dương luôn. Anh Con trai bà Cả Đọi, anh em cùng vợ với Công tử Hà Đông, thanh niên Bắc kỳ chính cống Bà Lang Trọc, có duyên được vào làm nhân viên báo Sàigònmới, tờ nhật báo Nam kỳ điển hình, độc giả của Sàigònmới toàn là người Nam. Anh viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông cho báo Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong của chủ nhiệm Hồ Anh, tuần báo Điện Ảnh của chủ nhiệm Nguyễn Ngọc Linh, rồi Kịch Ảnh của chủ nhiệm Quốc Phong, tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai của chủ nhiệm Nguyễn Đức Khiết, anh con thứ sáu của bà Bút Trà. Anh ra dzô xoành xoạch nhà sách Xuân Thu, Pagode, Brodard, anh đớp bíp-tếch ở Diamond, Kim Hoa, bui-a-bét ở Choeng Nam và đều đều mỗi ngày anh hút vào phổi anh khói độc nhưng thơm, nhưng mê người của gần 60 điếu thuốc lá.

Xin cho hoài niệm chút thôi. Bạn có thể nói: “Ăn chơi hạng bét. Dzậy mà cũng kể…” Bạn có thể nói: “Mẹ kiếp. Việt cộng nó tuyên bố Đồng Khởi từ năm 1958. Thằng lớn chơi lớn, thằng nhỏ chơi nhỏ. Đầu hàng là đáng kiếp…” Bạn nói đúng. Tôi chỉ kể để nói rằng tôi hút thuốc lá Mẽo đến hết tháng 5 năm 1975 là ngừng. Ngày 5 hay 10 Tháng Năm năm 1975, tôi gượng đi lên trung tâm Sàigòn. Chị bán thuốc lá ở trước tiệm kem Mai Hương đường Lê Lợi còn vài gói Paul Mall và một hộp thuốc pipe Sir Walter Raleigh. Tôi mua cả số thuốc này. Tôi giữ hộp Sir Walter Raleigh để đựng thuốc lá Vĩnh Hảo. Năm 1982 anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nguyễn Khánh Giư đến nhà tôi. Nhìn thấy hộp thuốc Mỹ để trên bàn anh Hiếu Chân ngạc nhiên:

– Cha… Giờ này mà cậu vẫn còn thuốc lá Mỹ để hút à?

Mấy tối trước tôi vừa nghe một phóng viên Đài BiBiXi diễn tả cuộc sống ở thành phố Hồ Chí Minh bằng câu: “Trái tim tư bản vẫn đập trong cái xác Xã hội Chủ nghĩa”, tôi trả lời anh Hiếu Chân:

– Có cái hộp Mỹ thôi, ông ơi. Trong nó đựng thuốc lá Vĩnh Hảo. Cái này gọi “gan ruột vô sản nằm trong cái xác tư bản”

Tôi ngừng viết năm phút vì bồi hồi tưởng nhớ những ông bạn tôi nay không còn nữa, các anh hơn tôi từ mười đến mười lăm tuổi. Các anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nguyễn Khánh Giư, Trần Việt Sơn, Cao Hữu Đính, Nguyễn văn Đạt, Vương Văn Bách, Cát Hữu, Dương Thiệu Tước, Vũ Bằng, Hoàng vĩnh Lộc… Các vị đàn anh tôi đã sống, đã chết ở Sàigòn sau 1975. Hai mươi mốt mùa lá rụng đã rơi trên những lối mòn mờ vết chân xưa kể từ ngày oan trái ấy. Không biết bao nhiêu người tôi được quen biết, giao du nay đã ra người thiên cổ.

Buổi tối họp mặt của chúng tôi Noel 1983 ở vi-la của Nữ minh tinh Kiều Trang có sự tham dự của các đàn anh Tam Lang, Vũ Bằng, Doãn Quốc Sĩ, Tạ Tỵ. Bốn anh chỉ đến ngồi chơi, nói chuyện với anh em cho vui rồi về, không ở lại ăn uống. Mời 6 giờ, nhưng nhà khó tìm, người nọ chờ người kia, nên mãi đến 8 giờ tối mới bắt đầu ăn uống. Rượu, tôi nhớ có hai chai Napoleon, không phải Camus. Dương Hùng không mang Cây Lý đến như tả trong truyện. Thấy có hai gói Lucky, tôi hỏi Khuất Duy:

– Ê… mua cả gói cho anh em hút hay mua lẻ vài điếu đây?

Anh Vũ Bằng cười:

– Hoàng Hải Thủy bôi bác Khuất Duy Trác quá vậy..?

Tối ấy các anh Tam Lang, Vũ Bằng, Trần Việt Sơn hãy còn sống, hai anh Tạ Tỵ, Duyên Anh chưa vượt biên, chúng tôi chưa bị bắt, hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường chưa chết trong tù.

Tôi bị bắt lần thứ nhất cuối năm 1977, hai mùa lá rụng sau tôi từ Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu trở về mái nhà xưa. Dương Hùng Cường đã đi cải tạo ba niên và đã trở về với vợ con trong căn nhà hẻm đường Lý Thường Kiệt, gần cái gọi là Trung tâm Nữ Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Gặp nhau, Cường bảo tôi:

– Trần Tam Tiệp trước có làm thơ tếu ký tên Đạo Cù đăng ở Con Ong… nay là Tổng thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại ở Paris, có gửi thuốc Tây về cứu đói văn nghệ sĩ. Tôi đã báo tin cho Tiệp biết ông về và gửi địa chỉ của ông cho Tiệp. Kỳ quà tới thế nào ông cũng có đấy.

Và thế là tôi được ghi danh vào sổ Con Cá Nó Sống Vì Nước Ngoài của Văn Bút Hải Ngoại. Tiệp viết thư về cho chúng tôi biết anh xin được PEN International — Hội Văn Bút Quốc Tế — một khoản tiền để cứu đói anh em kẹt ở nhà. Số tiền PEN Intern, cộng với số tiền Văn Bút Hải Ngoại quyên góp được, Tiệp mua thuốc tây gửi về cho chúng tôi. Khi Tiệp gửi tiền về cho chúng tôi tổ chức đêm Noel với nhau, vợ chồng Khuất Duy Trác – có Ngũ Long Công chúa, lúc này còn Tứ Long, một công chúa đã phú lỉnh sang được Xê Kỳ – được Tiệp nhờ tổ chức bữa ăn Noel họp mặt. Trác mượn vila của bà chị nữ minh tinh Kiều Trang — Kiều Chinh — để anh em gặp gỡ.

Vi-la ở Cư xá Lữ Gia cạnh trường đua Phú Thọ. Từ Cư xá Tự Do giữa Ngã Ba Ông Tạ và Ngã Tư Bẩy Hiền tôi đã đạp xe lóc cóc đến Cư xá Lữ Gia nhưng vì tôi ghi sai số nhà nên tôi không tìm ra vi-la. Trong khi ấy mấy cháu con gái của Khuất Duy Trác và Dương Hùng Cường- Vợ chồng Cường cũng có Ngũ Long Công chúa như vợ chồng Trác- đứng ở đầu ngõ chờ chú, bác nào lớ ngớ có vẻ tìm nhà thì chỉ đường. Tôi có đạp xe qua chỗ mấy cháu đứng nhưng tôi chẳng biết mặt đứa nào cả. Còn các cháu chắc cũng ngờ ngợ nhưng thấy tôi đạp đi luôn nên chẳng hỏi. Tôi về nhà ngồi được một lúc thì một anh bạn chạy xế Bridgestone đến. Anh biết tôi không tìm ra nhà nên đến đón tôi.

Sự thực là như vậy. Và vì vậy cho nên sáng nay ngồi viết ở Rừng Phong Arlington – Tết Mẽo, tết Mít qua đã lâu rồi nhưng đêm qua, trận mưa tuyết thứ tư trong năm mới đổ xuống Virginia Đất Tình nhân- sáng nay tuyết trắng trời, trắng đất, tôi – đại diện nhân vật Hoàng Hải trong NTBKCB, xin nói cho rõ:

1. Tôi có đến dự buổi gặp mặt tại vila Kiều Trang nhưng tối ấy tôi không có hút thuốc pipe Half and Half như được tả. Tôi không hút vì tôi không có mà hút. Từ năm 1980 có luật tất cả các loại thuốc lá ngoại quốc hằm bà lằng xíu oắt đều bị tịch thu hết. Thuốc Tylenol cũng vậy. Một lần khoảng năm 1982 tôi lên Kho Hàng Nước Ngoài ở Phi trường Tân Sơn Nhất lãnh một thùng quà từ Mỹ gửi về. Em kiểm hóa còn trẻ, trạc tuổi Kiều Giang con gái tôi, thấy số quà của tôi quá nghèo và chắc thấy nhan sắc tôi tiều tụy quá nên thương hại bảo tôi:

– Có mấy gói thuốc. Bác cất ngay đi. Đừng để người ta thấy…

Lần ấy trong số quà em tôi từ Mỹ gửi về có một cái pipe, bốn gói thuốc 79. Tôi mang thuốc 79 đi bán ở chợ Tân Định. Cái pipe được 500, 4 gói 79 được 200 tiền Hồ. Việc này có Cua Biển làm chứng. Cua Biển hiện cùng với Hoàng Anh Tuấn ở San Jose. Cua Biển dắt tôi đi bán. Có hàng tôi cũng chẳng biết phải đem bán ở đâu.

Bởi vậy tôi thấy tôi có quyền kêu “Oan Ơi Ông Địa” khi bị tả là phây phây hút thuốc pipe Háp ên Háp giữa lòng thành phố HCM muôn dân lầm than đói rách tả tơi. Tôi có hút nhưng là hút “Ngáp ên Ngáp” chứ không phải Háp ên Háp.

Tôi còn bị vu oan trong đoạn diễn tỏa tôi “nịnh” bà chị nữ minh tinh Kiều Trang. Em Thị Mầu bị nghi là còn trinh oan uổng như thế nào thì tôi cũng oan như thế. Sự thật là bà chủ nhà cho vợ chồng Khuất Duy mượn một gian phòng và nhà bếp trong một tối nhưng bà không ra tiếp tụi tôi, không ăn uống với tụi tôi. Tôi không những là không có hân hạnh được nịnh bà mà tôi còn cả đời chẳng bao giờ được gặp bà, được nhìn thấy dung nhan của bà.

Tội nghiệp tôi, tội nghiệp Hoàng Hải. Ngày ấy, năm ấy tôi đâu còn tí ti ông cụ hào hoa phong thấp nào. Còn đâu những ngày phì phèo Philip Morris Vàng, vào nhà Xuân Thu ôm một đống sách báo, ăn trạo tôm, ngọc dương hầm thuốc Bắc ở Ngân Đình Tửu Gia, phóng xế Hillman Đề-ca-pô-típ trên xa lộ, trải áo paraverse cho nàng nằm dưới hàng dừa, chiều chiều lên tuốt Chuồng Cu Nhà Quốc Hội ngồi với Từ Chung, Cát Hữu, Xuân Mai – hôm nào Từ Chung không đi thì có Phan Nghị – dự phiên họp Quốc hội để viết bài tường thuật trên báo Sàigònmới. Những ngày ấy đã xa rồi trong dĩ vãng. Những năm 1980, tôi gầy ốm xương xẩu, đen đủi, thân xác chỉ còn xương với da. Nhiều lúc đứng trước gương trong nhà tôi thấy tôi như con trâu già. Một cô em văn nghệ của tôi, cô Thục Viên, hiện ở Houston, Texas, có lần nói với tôi ở Thành Hồ những ngày xa xưa đó:

– Em thấy anh đi qua, nhưng em không biết có phải anh không nên em không gọi. Sao anh ốm quá…

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 14)

Trong những ngày đen hơn mõm chó mực ấy nhiều lần đạp xế lang thang trên những nẻo đường Thành Hồ tôi cũng có nhìn thấy vài người đàn bà trước 1975 có cảm tình với tôi. Tôi có thể ghé xe đạp vào vỉa hè nói chuyện vài câu với các nàng. Nhưng tôi không ghé. Ghé làm gì. Chỉ thêm buồn tủi. Nhan sắc tôi tàn phai thảm thiết quá đỗi. Tôi muốn giấu mặt tôi đi để các nàng đừng nhìn thấy. Hôm nay tôi xin nói rõ: Tôi không hề có hân hạnh được “nịnh bà chủ vila Kiều Trang” như chuyện diễn tả trong NTBKCB. Tự xét thân tôi, tôi thấy dường như cả đời tôi chẳng nịnh, chẳng bốc thơm, chẳng nâng bi qua một người đàn bà nào trên cõi đời này. Ca tụng những nữ nhân vật trong tiểu thuyết thơm hơn múi mít thì có, nhưng ca tụng đàn bà bằng xương, bằng thịt, bằng da, đàn bà có ăn, có ngáo thực sự trên đời này thì không. Nhiều người đọc truyện tôi viết thấy tôi có vẻ vi vút phong tình, nhưng đấy toàn là chuyện tôi phịa ra mà thôi. Tôi là anh đàn ông cơm nhà, quà vợ tầm thường nhất cõi đời này. Quả đáng tội cũng có vài người đàn bà chẳng may dính líu ái tình mí tôi nhưng đó là vì các nàng kiếp trước quỵt nợ tôi nên kiếp này các nàng phải trả. Dzậy thôi. Tôi không hề thả lời ong bướm quyến rũ rủ rê bất cứ người đàn bà nào.

Về nữ minh tinh Kiều Trang thì cái gọi là quen biết giữa nàng với tôi là như vầy: Năm 1956 có hai bộ phim Việt do đạo diễn Phi Luật Tân thực hiện ra đời: Phim “Chúng tôi muốn sống” và phim “Ánh sáng miền Nam“. Những tên tuổi Mai Trâm, Thu Trang, Khánh Ngọc, Lê Quỳnh nổi lên từ hai phim này. Anh Đỗ Bá Thế, Giám đốc hãng phim Đông Phương thực hiện phim “Ánh sáng miền Nam“, nhờ bạn tôi Minh Đăng Khánh, giúp phần quảng cáo trên các báo. Năm đó tôi đang phụ trách cái gọi là Trang Điện ảnh cho nhật báo Ngôn Luận và tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong của chủ nhiệm Hồ Anh.

Gần Tết hay vừa Tết xong, hãng phim Đông Phương tổ chức cuộc Thi Hoa Hậu Đông Phương ở Hội Chợ Quang Trung, Minh Đăng Khánh chở tôi lên hội chợ trên chiếc Lambretta của anh. Hội chợ buổi tối vắng còn hơn chùa Bà Đanh. Khách dự cuộc thi hoa hậu ngồi ngoài trời lạnh thấy mồ. Dự thi hoa hậu chừng mười lăm em. Các em toàn bận áo dài – không hở cổ vì bà Lệ Xuân chưa lăng xê mốt hở cổ, hở vai – có mặc quần đàng hoàng, đi qua đi lại vài vòng, không có mặc áo tắm một mảnh, hai mảnh chi cả. Ta có thể coi đây là cuộc thi hoa hậu thứ nhất ở Sàigòn.

Người về sau trở thành nữ minh tinh Kiều Chinh — người được gọi là Kiều Trang trong NTBKCB — cũng lên đài biểu diễn. Lẽ ra nàng được chọn làm Hoa Hậu Đông Phương, nhưng vì nàng không ghi danh dự tuyển nên Ban Giám khảo trao tặng nàng một giải đặc biệt. Tôi theo Minh Đăng Khánh vào cái gọi là hậu trường quây bằng cót để phỏng vấn nàng đôi câu về đăng báo.

Sau đó nàng bốc lên – không như diều gặp gió mà như phi cơ phản lực – nàng lên hình bìa tạp chí Kịch Ảnh Số Một, đóng phim “Hồi Chuông Thiên Mụ” v.v…và v.v… Thành công với phim “Người Tình Không Chân Tay“, nàng trở thành người cả nước biết mặt, biết tên v.v… và v.v…

Người có tài như cây kim nằm trong bọc chẳng ai bóp cũng thò ra. Người đã có tài mà lại là đàn bà đẹp thì mũi kim của các nàng còn thò ra nhanh gấp bội. Kiều Chinh có tài nên Kiều Chinh nổi. Anh Con trai bà Cả Đọi lục lục thường tài nên anh không nổi, không chìm, anh lình bình vất vả suốt một đời chẳng lúc nào được trội hơn người.

– Khuất Duy, Dương Hùng, Hoàng Hải không bao giờ gọi Đoàn Quốc bằng “cụ”, bằng “bác” cả.

– Hoàng Hải có nhờ Trần Tam Tiệp, với tư cách Tổng Thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, liên lạc với mấy nhà xuất bản bên Xê Kỳ đã tái bản vài quyển truyện của y để xin tí tiền cứu đói. Nhờ Tiệp tôi được chi – qua Tiệp – khoảng 400 đô. Trong mấy năm trời, tôi nhận được nhiều lần quà của Tiệp. Nhưng tôi chỉ nhận được phần quà của tôi như anh em có tên trong Danh Sách Con Cá của Tiệp. Khi tôi viết bài gửi sang, Tiệp đưa đăng báo, anh em thường nhờ Tiệp gửi tiền về cho tôi là tôi có tiền riêng mà thôi.

– Trong buổi gặp tối ấy chúng tôi có đọc một thư của Tiệp nhưng thư ấy không phải là lá thư được đăng ở đoạn trên. Thư của Tiệp viết cho chúng tôi có kèm theo một thư tiếng Anh của vị Trưởng ban Writers in Prison Committtee của Ban Chấp Hành PEN Intern gửi cho Tiệp, thư này nói đến chúng tôi.

*****

Tháng Chín 1977 công an Thành Hồ đưa xe bông đến Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, đón tôi đi. Tôi nằm 12 tháng 2 ngày trong hai phòng Biệt giam 15 khu B, phòng biệt giam 6 khu C Một – kỷ lục nằm xà lim có thể là vô địch trong hàng ngũ văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bị giam ở cái gọi là Trại Tạm Giam số 4 Phan Đăng Lưu – Tháng Mười Một năm 1979 tôi trở về Ngã Ba Ông Tạ. Lần tù thứ nhất này tôi nằm ngâm thơ Ngồi Rù 23 tháng mây bay trong Số 4 Phan Đăng Lưu.

Người bạn tôi gặp lần đầu tiên khi vừa về đến nhà là Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều. Khi ấy Mai Thảo, Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Lê Thiệp, Nguyễn Hữu Hiệu – Thiệp và Hiệu sống cùng khu Ông Tạ với tôi – đã vượt biên sang Mỹ. Nhiều bạn tôi bị bắt trước tôi: Thái Thủy, Duyên Anh, Thanh Thương Hoàng, Tú Kếu còn mỏi mòn trong những trại cải tạo. Những ngày tháng đen hơn mõm chó mực ở Thành Hồ cuối 79 tôi chỉ có một người bạn thân là Lê Trọng Nguyễn.

Lê Trọng Nguyễn đi sang Hoa Kỳ với vợ con theo diện đoàn tụ gia đình năm 1983. Gia đình vợ anh bảo lãnh cho con gái và thế là Nguyễn và bốn con đàng hoàng lên máy bay sang Mỹ. Gia đình Nguyễn là một trong số những gia đình đầu tiên đi đoàn tụ gia đình.

Nếu Lê Trọng Nguyễn không đi khỏi Thành Hồ năm 1983 anh đã bị bắt cùng chúng tôi trong đêm 2 tháng Năm năm 1984 hoặc ít ngày sau đó. Chuyện đó chắc hơn đinh đóng cột. Nếu Nguyễn bị bắt cùng chúng tôi, không biết đời anh sẽ ra sao? Khi nhìn thấy nhau xách túi quần áo đứng chờ trước cửa xà-lim, chúng tôi không ai nghĩ đến chuyện hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường lại chết trong tù.

Nguyên nhân Lê Trọng Nguyễn – nếu còn có mặt ở thành Hồ tháng Năm 1984 – bị tóm là anh làm một bản nhạc hành khúc. Anh đưa cho tôi và bảo:

– Mày làm lời bài này cho tao. Tao tặng Kháng Chiến Quân…

Tôi nói chỉ có người soạn nhạc lấy thơ phổ nhạc, tôi không thể làm lời nhạc được vì lẽ giản dị tôi mù tịt về âm nhạc, mù tịt luôn cả dương nhạc. Nguyễn làm lời rồi đưa bản nhạc cho tôi gửi sang Mỹ. Tôi đặt tên cho bản nhạc rồi viết thêm vài dòng:

Tiếng hát trở về

Tặng các bạn Kháng Chiến Quân. Nhạc và lời Trung Nhơn.

Trung Nhơn là một nhạc sĩ nổi tiếng của chúng ta từ lâu trước 1975. Hiện ông đang sống ở Sàigòn. Vậy chúng ta cứ tạm biết ông với cái tên Trung Nhơn.

Tôi gửi bản nhạc đi. Năm ấy là năm 82. Thấm thoát vậy mà đã mười mấy mùa lá rụng. Những ngày như lá tháng như mây – Thơ Thanh Nam, – tôi không nhớ tôi gửi cho ai, cho báo nào. Thế rồi Nguyễn đi khỏi Thành Hồ vào cuối năm 1983, đi khỏi đường Nguyễn Minh Chiếu bị đổi tên là Nguyễn Trọng Tuyển, tôi mất thêm một người bạn tốt.

Vào hai giờ sáng ngày 2 tháng 5, 1984, bọn đầu trâu mặt ngựa cháu Bác Hồ, mười mấy tên kéo vào căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi. Lực lượng công an đi vồ phản động lần này thật hùng hậu. Hai máy ảnh nháng đèn liên hồi. Ít nhất nội trong đêm ấy chúng cũng phái năm đội như thế đi bắt anh em chúng tôi: Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự và tôi bị bắt trong cùng một đêm.

Xét nhà tôi chúng tóm được mấy bức thư Nguyễn từ Mỹ gửi về cho tôi. Nhờ có kinh nghiệm vì đã bị bắt một lần tôi cẩn thận cất giấu tất cả những gì tôi viết. Khi ta đã cất đến ông nội chúng nó cũng không tìm thấy. Chỉ vì ta như những em gái trinh hớ hênh, ta để tài liệu khơi khơi trên bàn, bên gối, trên giường, trong tủ nên chúng mới dễ dàng tóm được mà thôi. Chúng vớ được mấy lá thư của Nguyễn vì tôi thấy thư viết chuyện đời sống của Nguyễn và gia đình ở bên Mỹ, toàn chuyện vô thưởng vô phạt nên để thư trong ngăn kéo bàn.

Theo đúng thông lệ và thủ tục thẩm vấn người mới bị bắt vô là bị hỏi liên tiếp trong những ngày đầu. Tôi không chối tội vì tôi thấy tôi không có gì phải xấu hổ vì những việc tôi làm. Hai nữa tôi không chối vì tôi biết có chối cũng vô ích. Khi bắt mình chúng đã định trước mức án. Chối thì mười năm mà nhận thì cũng mười năm. Chi bằng nhận mình hách hơn. Ít nhất mình cũng không hổ thẹn với chính mình. Lý do thứ ba làm tôi dễ dàng khai báo nhận tội là tôi không thích nói dối. Tất nhiên không phải tôi nói dzậy là suốt đời tôi không bao giờ nói dối. Có chứ. Nhưng tôi đã viết: theo tôi thấy qua kinh nghiệm mồ hôi và máu tươi của tôi – mồ hôi vì trong tù đông người nóng quá, máu tươi vì phải đem thân gầy nuôi rệp xuất khẩu thâu ngoại tệ về cho đảng Cộng sản bỏ túi và nằm trần không mùng cho muỗi tha hồ đốt – với Công an cộng sản thì người tù chối hay nhận tội cũng vậy thôi. Thêm nữa tôi dễ dàng nhận tội vì tôi chỉ nhận những cái gì gọi là tội của tôi, tôi không phải khai báo việc làm của anh em tôi. Đây là điều thoải mái nhất cho lương tâm tôi. Những gì tôi biết về việc làm của anh em tôi bọn cớm cộng cũng đã biết. Chúng còn biết về những việc anh em tôi làm nhiều hơn tôi nữa.

Công an Thành Hồ có sách báo của người Việt hải ngoại dễ hơn chúng đớp cơm sườn. Tay sai của chúng ở các nước tư bản mua đủ thứ sách báo Việt gửi về. Chúng chỉ việc nghiên cứu những bài viết tìm xem tên nào đang sống trong vòng kìm kẹp ác ôn của chúng dám liều mạng viết những bài tố cáo tội ác của chúng gửi ra nước ngoài. Huỳnh Thành Trung, tên anh Công an thẩm vấn tôi, mang vào Phan Đăng Lưu chừng năm bẩy tờ tạp chí hải ngoại. Trong những tờ báo này có những bài chúng nghi là do tôi viết. Chúng mang báo vào cho tôi đọc và hỏi rằng có phải bài này do tôi viết không?

Chúng chỉ cho tôi đọc riêng bài nào chúng nghi tôi là người viết. Một trong những lạc thú của những người viết là được đọc những bài viết của mình được in rõ ràng, sáng sủa trên những trang sách báo. Lâu lắm rồi tôi không được hưởng cái lạc thú ấy. Tôi khoái chí đọc từ đầu đến cuối những bài tôi viết được in ở nước ngoài. Và tôi nhận của tôi nếu bài viết đó do tôi viết, tôi nói không nếu bài viết đó không phải do tôi viết. Tôi dùng nhiều bút hiệu dưới những bài ấy: Ngụy Công Tử, Văn Kỳ Thanh, Yên Ba, Con Trai Bà Cả Đọi, Dương Hồng Ngọc, Hồ Thành Nhân, Triều Đông, Hạ Thu v..v… Trên mấy bài chúng nghi tôi là tác giả tôi thấy tên nào đó ghi mấy chữ “H2T?”

Hát Đơ Tê và dấu hỏi. Như vậy là có tên nào đó biết khá rõ về lối viết, về cái gọi là “văn phong, ngôn ngữ” của HHT đã đọc bài viết này và nghi bài đó là của Hát Đơ Tê.

Trong một số báo như thế tôi thấy đăng bản nhạc “Tiếng Hát Trở Về tặng các bạn Kháng Chiến Quân, Nhạc và lời của Trung Nhơn,” đăng nguyên con, đăng y chang. Ông bạn nhà báo nào đó nhận được bản nhạc đã đưa luôn bản viết tay của chúng tôi lên máy chụp luôn, in luôn. Chữ tôi viết lời giới thiệu, chữ Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều Trung Nhơn Rởm lù lù trên trang báo. Còn chối chăng chi nữa. Chối là con nít. Chữ mình viết rõ ràng. Có là con nó thì may ra chối nó để yên, còn là bố nó mà đến nước ấy còn ngang ngạnh chối nó cũng đá cho hộc máu.

Tôi nói:

– Đúng. Bài này tôi viết. Bản nhạc này do tôi gửi đi. Tác giả nó là bạn tôi, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, anh bạn tôi đã sang Hoa Kỳ.

Anh công an nghiêm giọng:

– Anh nên khai báo nghiêm chỉnh. Đừng tưởng cứ đổ hết tội cho người đã ra đi nước ngoài là được đâu.

Tôi chỉ nói:

– Mấy dòng chữ trên bản này là của tôi, những dòng này là chữ Lê Trọng Nguyễn. Các anh đã bắt được thư của Nguyễn ở nhà tôi, so tự dạng là các anh biết ngay chứ gì.

Anh công an thẩm vấn tôi lần tôi bị bắt thứ hai này chưa đầy ba mươi tuổi. Anh sinh trưởng ở Sàigòn, thuộc loại con nhà “gia đình cách mạng”, tức có cha, anh, chú, bác là Việt cộng nên anh được đưa vào ngành công an. Tên anh, bí danh hay tên thật tôi không rõ, là Huỳnh Trung Thành. Tôi thấy tên anh ghi trên biên bản thẩm vấn tôi. Dường như tôi có duyên nợ với những anh công an Việt cộng họ Huỳnh tên Thành. Người thẩm vấn tôi lần trước 77-79 là Huỳnh Bá Thành, lần 84-90 này là Huỳnh Trung Thành.

Trong những buổi thẩm vấn tôi Huỳnh Bá Thành thường ngưng hỏi để trò chuyện với tôi, Huỳnh Trung Thành nói chuyện riêng ít hơn. Anh còn quá trẻ so với tôi, anh không biết gì nhiều để nói. Có lần anh tâm sự:

– Tôi sống ở Sàigòn nhưng các ông anh, bà chị tôi mới biết các ca sĩ Thái Thanh, Anh Ngọc. Tôi không biết.

Xin kể một chuyện bên lề dính dáng đến hai ông Mít nổi tiếng trong giới Mít Dzăng nghệ dzăng gừng hải ngoại nói chung, Xê Kỳ nói riêng. Hai ông đó là ông Lê Văn đài VOA, và ông Đỗ Ngọc Yến nhật báo Người Việt.

Như tôi đã viết hơn một lần: sau 1975 sợi dây liên lạc mong manh duy nhất mà những Anh Con Trai Bà Cả Đọi kẹt giỏ Thành Hồ còn có được với thế giới bên ngoài là những giờ phát thanh tiếng Việt của hai đài VOA, BBC: Vợ Ông Anh, Bà Bán Cam, Bà Bán Cháo. Mỗi ngày chỉ cần nghe hai đài này là chúng tôi có thể yên tâm là mình biết tạm đủ tin tức trên thế giới.

Nhưng cũng có nhiều ông nghiện nghe đài nặng – tiếng đài là do ta bị ảnh hưởng của người miền Bắc xã hội chủ nghĩa: Mua đài, nghe đài, đài nói láo, báo nói sai – ngoài việc chờ nghe hai đài VOA, BBC các ông này còn chịu khó nghe đài Úc. Có thể nói kể từ ngày những đài VOA, BBC bầy ra giờ phát thanh tiếng Việt chưa bao giờ hai đài lại được thính giả Mít chiếu cố nhiều như những năm sau 1975.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 15)

Việt cộng có luật cấm nhân dân nghe những đài phát thanh tư bản. Luật này lâu lâu lại được vẩn vương đem ra đăng lại trên các nhật báo. Nhưng ngơ ngáo vào Sàigòn Việt cộng bị tràn ngập bởi các máy radio. Sàigòn quá nhiều radio Việt cộng kiểm soát không nổi. Việc nghe VOA, BBC trở thành một nhu cầu phải có của nhiều người dân Việt Nam Cộng Hòa thua trận. Những tháng năm đen tối ấy anh Cao Hữu Đính, ông bạn vong niên của tôi, trang bị một máy radio vừa dùng được điện vừa xài được pin. Anh đề phòng những lúc Thành Hồ mất điện anh vẫn nghe được tin và để buổi sáng anh mang radio theo anh vào phòng vệ sinh. Giáo sư Cao Hữu Đính, nguyên giáo sư Phật học Đại học Vạn Hạnh, nguyên Tổng Thư ký Hội Đồng Liên Tôn thời Phật Giáo chống Tổng thống Ngô Đình Diệm, anh đã mãn phần tại Thành Hồ năm 1993. Anh chị có bẩy người con. Tất cả các con của Cao lão gia đều thành đạt và hiện nay ở Canada, Hoa Kỳ và Pháp. Anh Đính chăm nghe radio, nhớ những tin liên can đến Việt Nam để nói lại cho chúng tôi nghe.

Hai ông Mít Ra-đi-ô ở hải ngoại được nhân dân Thành Hồ nhắc nhở đến, hai ông cùng tên Văn, ông Lê Văn Đài VOA, ông Đỗ Văn Đài BBC – Những năm 82, 83 buổi phát thanh Tạp Chí Đông Nam Á chín giờ tối thứ năm trong tuần của Đài BBC được Anh Con Trai Bà Cả đón nghe kỹ nhất. Tối nào có mục đi ăn nhậu viả hè anh đều chăm chăm đạp xế về nhà trước chín giờ tối để nghe Tạp Chí Đông Nam Á. Tối nào vui bạn hay có mồi ngon, rượu tốt không đành lòng nhẩy lên xế đạp trở về nhà để nghe BBC Đông Nam Á được anh tiếc hùi hụi. Một trong những nguyên nhân làm anh đón nghe đài BBC, VOA là để anh có điều kiện bàn tán với thiên hạ. Sáng hôm sau đến tiệm hớt tóc hay quán cà phê vỉa hè, nghe ai nói tối qua Bà Bán Cam loan tin này, tin nọ, anh có thẩm quyền phát biểu: “Hổng phải thế ông ơi. BiBiSi nói như vầy nè…”. Nếu anh không nghe được buổi phát thanh ấy khi thiên hạ bình loan anh bán tín bán nghi.

Ông Văn ra-đi-ô thứ hai là ông Lê Văn. Ông này được bà con cô bác biết tên nhờ mục Âm Nhạc Việt Nam Hải Ngoại VOA. Những năm 1980 nhạc chiến đấu của Việt Dzũng, Nguyệt Ánh đang ở trong vòng hào quang sáng chói nhất. Giờ phát thanh nhạc Việt hải ngoại có nội dung đả kích Việt cộng đến nơi đến chốn. Bởi dzậy Việt cộng rất không ưa ông Lê Văn. Sau khi Hoa Kỳ bang giao với Việt cộng, VOA phái ông Lê Văn làm phát viên VOA ở Hà Nội, Việt cộng đã không chịu cho ông về nước. Trong khí đó thì Đỗ Văn BBC, một Công Tử Hà Đông rất ít khi chịu nhận mình là Công tử Hà Đông, cùng đi với bà Judy Stowe BBC, đã đàng hoàng trở về Hà Nội, Thành Hồ với tư cách đặc phái viên BBC từ những năm 88, 89..

Bà con kẹt giỏ nghe Đài VOA, kể cả những văn nghệ sĩ, chỉ biết Lê Văn là ông Lê Văn. Bỗng dưng tuần báo Tuổi Trẻ, cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố HCM, đăng một bài đả kích đài VOA, gọi đích danh Lê Văn VOA là ký giả Đỗ Ngọc Yến.

Anh Con Trai Bà Cả từng có hân hạnh được quen biết ông Đỗ Ngọc Yến từ năm nhà ông còn ở gần Ngã Tư Hàng Xanh xa lộ. Ngày 25, 26 chi đó Tháng Tư năm 1975, anh còn gặp ông Đỗ Ngọc Yến ở Sàigòn. Ông và các ông Đỗ Quý Toàn, Lê Tất Điều, Vũ Ngự Chiêu, Phạm Hậu, Phạm Huấn, Thanh Nam v.v.. cùng nhiều ông khác dzọt đi thật lẹ. Từ khi tờ Tuổi Trẻ loan tin Lê Văn VOA là Đỗ Ngọc Yến bang chúng Cái bang Saìgòn đều cho là đúng. Chẳng còn ai théc méc gì.

Bị bắt, anh Con Trai Bà Cả Đọi cùng người anh em cùng vợ mí anh là Công Tử Hà Đông không thấy phiền hà gì với những buổi được gọi làm việc, tức là đi chịu thẩm vấn. Cai tù đến dùng sâu chìa khóa đập mạnh vào cửa xà lim – Hán Việt văn huê gọi là Biệt Giam — và gọi: “Hát… Hát… Tê… đi làm việc…”. Phải viết là “được” đi thẩm vấn vì phòng tù xã hội chủ nghĩa, nếu là phòng biệt giam, tức sà-lim thì người tù nằm một mình quá buồn, muốn được ra ngoài cho thỏang khoát, muốn được nói chuyện dù là nói chuyện với kẻ thẩm vấn mình, nếu ở phòng tập thể thì phòng nhồi nhét quá đông người. Bẩn, nóng, ồn ào, hôi thối. Mùi người. Đụng chạm. Đó là những gì có mặt thường trực Vảnh Sít xuya Vảnh Cát ở tất cả những phòng tù Việt cộng nhốt nhân dân thân thương, nhốt những đồng bào của chúng không những chỉ ở Thành Hồ mà là ở khắp nước Việt Nam đau khổ. Được gọi đi thẩm vấn, ít nhất cũng được ra khỏi cái phòng giam bẩn thỉu ấy trong vòng hai tiếng đồng hồ, được ngồi tương đối thoải mái ở một chỗ tương đối vắng người, được công an Việt cộng mời hút thuốc lá Mai, Vàm Cỏ v.v…

Trong một buổi thẩm vấn thường lệ khoảng Tháng 8 năm 1984 anh công an Huỳnh Trung Thành mở cặp lấy ra quyển sổ bìa đen. Anh để một tấm các nửa trong nửa ngoài trong sổ, phần tên tuổi người trong tấm các được che đi, chỉ cho tôi thấy tấm ảnh căn cước cỡ cát-xít. Thành hỏi tôi:

– Anh biết ai đây không?

Tôi nhìn ảnh. Tôi gặp người trong ảnh này cuối tháng Tư 1975. Bi giờ là tháng Sáu 1984. Thấm thoát dzậy mà đã chín mùa lá rụng. Tôi tưởng như tôi mới gặp ông ấy có ngày hôm qua. Tuy không được giao du thân mật với ông nhưng tôi không làm sao quên được dung nhan của ông. Ông trán cao, tai lớn, mặt vuông cương nghị. Đặc biệt ông có cặp kính trắng cận thị hơi dầy nên trông rất trí thức. Chắc hơn bắp là mình nói đúng, mình cũng là tay kha khá ở Sàigòn vì mình quen biết nhiều người quan trọng, tôi trả lời:

– Nếu tôi không lầm thì đây là ảnh anh Đỗ Ngọc Yến…

Và để lấy điểm tôi tự khai báo thêm:

– Anh này hiện ở Mỹ. Nghe nói anh ta là Lê Văn đài Vê-Ô-A.

Huỳnh Trung Thành gật đầu:

– Anh nói đúng đấy.

Tấm các được lấy ra cho tôi xem. Chẳng cần nhìn tên tôi cũng biết đó là Đỗ Ngọc Yến. Đây là tấm phiếu lý lịch của anh khi anh khai lấy thẻ căn cước hay xin thứ giấy tờ gì đó ở trong hồ sơ Tổng Nha Cảnh sát của ta.

*****

Tôi có tật viết vòng vo và quý bạn đọc vừa thấy tôi biểu diễn một đường Lăng Ba Vi Bộ vi vút.Ý định của tôi khi ngồi vào bàn gõ máy chữ Olympia mang theo từ Ngã Ba Ông Tạ, Thành Hồ đến Virginia Rừng Phong A Linh Tôn là viết về Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều, và về một người đã thương xót, đã giúp đỡ an ủi khuyến khích, làm cho trái tim vợ chồng, bố con tôi, kể cả trái tim thằng cháu ngoại của tôi ấm lại.

Năm 1980 từ số 4 Phan Đăng Lưu trở về Ngã Ba Ông Tạ, gặp lại Dương Hùng Cường – anh đi cải tạo trở về khoảng năm 1979 – Cường bảo tôi:

– Trần Tam Tiệp, không quân, tức Đạo Cù, Con Ong, hiện là Tổng Thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, ở Paris, có gửi thuốc về cho anh em. Tôi đã cho Tiệp biết ông mới về, địa chỉ ông, kỳ quà tới thế nào ông cũng có đấy.

Tôi gặp Lê Trọng Nguyễn, Nguyễn nói:

– Có cô Phương Hương ở Pháp gửi thuốc về chi viện văn nghệ sĩ. Tao có báo cho cô ấy biết tin mày. Địa chỉ của cô ấy đây. Mày nên viết cho cô ấy…

Thế là tôi được ghi tên vào hai sổ Con Cá Nó Sống Vì Nước Ngoài, sổ Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kiêm Văn Bút Quốc Tế của Trần Tam Tiệp, Sổ Quan Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn của cô Phương Hương. Khi gửi thùng thuốc cho Lê Trọng Nguyễn, cô để tên người gửi là Lê Thị Phương Hương, trên thùng thuốc gửi cho tôi cô đề tên người gửi là Hoàng Thị Phương Hương. Gửi quà cho ai, cô lấy tên họ người ấy. Tôi chắc trên thùng thuốc cô gửi cho Mai Tuyết An, vợ Lý Đại Nguyên, cô để tên người gửi là Mai Phương Hương.

Trong những năm đen tối, tuyệt vọng ở Thành Hồ, tôi may mắn được khá nhiều người gửi đồ, gửi tiền về cứu trợ. Bà Dì tôi và các em tôi không kể, cô Phương Hương là một trong những người thương xót vợ chồng chúng tôi nhất. Tôi chắc với tất cả mọi người – những chúng sanh lặn ngụp trong bể khổ cõi Ta Bà – cô Phương Hương đều có tấm lòng vị tha như thế. Tôi được biết tên cô là Cao Ngọc Phượng, sinh quán Bến Tre, nữ bác sĩ. Cô là Phật tử thuần thành, đệ tử của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh. Tôi gửi một số bài viết của tôi sang cô. Hai bài của tôi được đăng trong tuyển tập “Tắm Mát Ngọn Sông Đào” do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành ở Paris năm 1982.

Tắm Mát Ngọn Sông Đào được lấy ra từ bài Sẩm Xoang của tôi:

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay anh vín đôi cành
Quả chín anh hái quả xanh anh vồ
Năm sáu năm nay anh ăn ở Thành Hồ
Cơm nhà quà vợ nửa rồ anh lại nửa điên
Sống quẩn quanh ngày tháng nó nặng chiền chiền
Ngày rơi ngày muộn, đêm phiền theo đêm
Nhưng mà em ơi… Anh ngẫm cái thân anh đến giờ này anh còn nệm ấm, giường êm.
Vợ thương, con thảo, anh còn rên cái nỗi gì
Bạn bè anh như lá đài bi
Đứa thì dãi nắng, đứa thì dầm sương
Thằng sông Vô Định phơi xương
Thằng thì con vợ nó phú lỉnh một đường sang sông
Thơ xanh anh chép giấy hồng
Lúc hèn thì đến Quận Công cũng hèn.
Nói gì rằng đỏ, rằng đen.

Được cô Phương Hương thương xót, cứu trợ và đối xử chân tình, tôi chăm chỉ viết thư cho cô, kể linh tinh đủ thứ chuyện trong nhà, ngoài xã hội. Ngoài việc cứu trợ bằng phẩm vật, nâng đỡ tinh thần bằng những lời thăm hỏi, cô còn giúp vợ chồng tôi nhiều nữa qua những việc cô làm mà cô không nói, như trình bày trường hợp của tôi với những tổ chức nhân đạo quốc tế để xin họ giúp đỡ, xin họ can thiệp cứu tôi, lên tiếng đòi trả tự do cho tôi.

Tháng Năm 1984. tôi bị bắt lần thứ hai. Năm mùa lá rụng ngồi tù nhìn nắng chiếu, mưa rơi ngoài song sắt phòng tù tôi mới được gần Alice vảnh cát xuya vảnh cát ở trại Cải tạo Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai, Alice kể:

– Cô Phương Hương tội lắm. Anh bị bắt rồi, thư đầu cô ấy gửi về cho con Giang. Cô ấy viết: “… Giang… con ôm chặt lấy Má cho cô…”

Năm 1989 Doãn Quốc Sĩ và tôi ở trại Z30A , cô Phương Hương nhờ một nữ đệ tử về thăm quê hương đem tiền cứu trợ đến tận nhà cho chúng tôi. Nữ phật tử này cũng theo các vị sư sãi chùa Già Lam lên trại Z30A thăm các vị Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Đại Đức Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát và thăm gặp mặt cả hai anh em Biệt Kích Văn Nghệ ở tù ở trại này là anh Doãn Quốc Sĩ và tôi.

Năm 1990 lần thứ hai tôi từ nhà tù cộng sản trở về mái nhà xưa. Cuộc liên lạc bằng thư từ giữa cô Phương Hương với tôi không còn được thường xuyên như trước 1984. Cô cho biết cô đã xuống tóc, trở thành Ni Sư, pháp danh là Chân Không, cô thường đi Ấn Độ, Tích Lan đi khắp nơi học và thuyết pháp. Cô chuyên vào việc tu hành. Việc quyên góp và cứu trợ đồng bào trong nước trong tổ chức Phật tử tự nguyện của cô được cô trao cho người khác.

Tháng Chín năm 1995, Thiền sư Nhất Hạnh sang Hoa Kỳ trong một chuyến đi hoằng pháp. Ni sư Chân Không ở trong đoàn tháp tùng. Cô Chân Không phone cho tôi khi cô theo Thầy đến Washington D.C. Cô mời tôi lên D.C. dự cuộc nói chuyện của Thầy. Người ta đến nghe phải mua giấy vào cửa, tôi đến nghe free.

Hai ngày sau, Thiền sư thuyết pháp ở Arlington. Vợ chồng tôi lại được gặp cô. Lần này vợ chồng chúng tôi được nói chuyện với cô lâu hơn. Cô đến phòng hội trước để chuẩn bị, sắp xếp cuộc thuyết pháp. Vợ chồng tôi đón cô trên đường cô đi vào hội trường. Gặp chúng tôi cô hỏi ngay:

– Kiều Giang hồi này sống ra sao? Con nó năm nay mấy tuổi rồi?

*****

Trích “Những tên Biệt kích cầm bút

Chỉ vài ngày sau khi Đoàn Quốc nhận được giấy xuất cảnh thì hầu như những người quen biết cũ trong làng văn, làng báo trước đây cũng đều biết tin. Lâu nay, ít ai nhắc đến ông ta. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì từ trước ông ta vẫn chuộng lối sống “ẩn dật” khá khác biệt với các đồng nghiệp.

Ngoài nghề viết văn, ông ta còn là nhà giáo, ảnh hưởng sâu đậm Nho giáo và của văn học Pháp, về sau này tốt nghiệp môn giáo dục học ở Đại học California. Ông ta còn nghiên cứu về Thiền và là bạn thân với các nhà sư tiếng tăm.

Tất cả những khuynh hướng văn học, triết học có vẻ trái khoáy với nhau tập hợp lại tạo thành tính cách riêng, mặt này bổ sung mặt kia, khiến cho các đồng nghiệp và độc giả của nhà văn Đoàn Quốc thấy ở ông một tổng hợp nhiều màu sắc và có sức thuyết phục!

Cái vẻ nho nhã bên ngoài khiến cho một số người coi đó là “tính truyền thống” của văn hóa Việt Nam. Điều khác là “nhà nho” Đoàn Quốc không có khăn đóng, áo dài mà khoác bộ cánh của văn chương lãng mạn Pháp và những đường nét kỷ hà của văn minh Mỹ ngang ngay sổ thẳng, chính xác và thực dụng. Vì vậy, trong văn chương và cả trong cuộc sống ai theo thị hiếu nào đều cũng có thể tìm thấy cái nhìn ưa thích nơi Đoàn Quốc. Vì chính màn khói ảo giác ấy đã đưa Đoàn Quốc lên vị trí đàn anh trong thứ trật tự “chiếu trên, chiếu dưới” trong làng văn Sàigòn trước đây.

Thế mà nay mai ông ta sắp đi cùng đám con lai Mỹ, cùng với các cụ già, cháu bé… được Nhà Nước cho phép xuất cảnh để “đoàn tụ gia đình”. Sự thật là vậy. Theo đúng chính sách, ông ta ra đi theo diện người ngoài tuổi lao động, già yếu, được con cái bảo lãnh, chứ không hề với tư cách một nhà văn. Ấy thế mà lại có tin đồn, ông ta được “một tổ chức nhân quyền quốc tế” nào đó can thiệp để ra đi với tư cách là một nhà văn “không thích nghi với chế độ cộng sản”! Cái tin vịt ấy kể ra cũng có xuất xứ của nó. Một vài tờ báo lá cải của nhóm lưu vong phản động bắt đầu làm rùm beng, coi việc ra đi của Đoàn Quốc như là thành tích “đấu tranh” của chúng buộc “nhà cầm quyền cộng sản” phải nhượng bộ!

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 16)

Trích NTBKCB, tiếp theo:

Thế đấy, nhưng nghe ai bàn tán đến việc này, Đoàn Quốc cũng không thanh minh, mặc ai hiểu thế nào cũng được. Được phép xuất ngoại, ông ta càng tính toán tương lai. Cũng chính trong thời gian đó, ông ta được bạn bè cũ ở nước ngoài báo cho biết số tác phẩm cũ của ông được tái bản ở Mỹ, lại có người hứa can thiệp để nhà xuất bản ấy trả tiền bản quyền cho ông ta. Hàng chục nghìn đô la đâu phải dễ kiếm với người đã ngoài sáu mươi như ông ta. Rồi đến lượt “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” gửi thư chúc mừng ông ta sắp được “tự do”, hứa hẹn sẽ đón tiếp ông ta như một hội viên danh dự.

– Té ra, người ta vẫn còn nhớ đến mình như ngày nào! – Đoàn Quốc tự nhủ – Thế mà lâu nay, chính ta lại quên lãng ta. Trong đêm tối mặt trời vẫn tồn tại!

Chính vì tự thấy mình vẫn “tồn tại” với tư cách một nhà văn mà Đoàn Quốc đã nhận lời và báo tin cho nhiều đồng nghiệp cũ đến nhà Kiều Trang, dự buổi họp mặt với các đồng nghiệp cũ. Vốn không thích ồn ào, ông ta lặng thinh khi cuộc họp chính thức hôm ấy bắt đầu, nhưng cũng từ đấy, trong đầu ông nẩy sinh ra bao dự tính khiến ông trằn trọc, nôn nao như đang thai nghén một tập truyện dài. Đúng ra Đoàn Quốc rạo rực với tập truyện “Dấu chân cát xóa” của ông ta viết từ năm 1972 đến 1974 và bản thảo đã được chữa xong ngày 16 tháng 5 năm 1975 – nửa tháng sau ngày thành phố được giải phóng. Tập bản thảo dấu trên trần nhà được lôi xuống. Ông ta chong đèn đọc mấy đêm liền, trân trọng như đọc tác phẩm của một văn hào!

Tháng ngày lùi xa tít tắp như cuối trời sa mạc. Tìm lại những dấu chân mình đã bị cát xóa. Bỗng thấy bầu trời “Springfield” – cánh đồng mùa xuân ấy – gần gũi trong xanh mà Chương – nhân vật trong truyện của ông ta – đã trở lại. Nơi ấy, những năm tháng sau khi giải ngũ, Chương đã sang du học và tốt nghiệp Ph.D . Nơi ấy Martha đã đến với Chương như một quà tặng của tự do. “Tôi sẽ dùng xe buýt đi dọc theo xa lộ qua các tiểu bang New Mexico, Arizona, Nevada và nhất định tôi sẽ đến Los Angeles qua Thung lũng Tử thần (Chương nhấn mạnh). Yes, Death Valley, I said” con lừa nhỏ của chàng Tappan.

Chàng Tappan đi qua thung lũng Tử thần dưới ánh nắng chói lòa trên sa mạc cát bỏng. Những tia nắng đã thực sự biến thành những mũi kim xiên thấu da thịt. Nhớ lúc Tappan chịu cơn bão táp giết người về đêm, chết ngất trên lưng lừa. Thế mà Tappan cũng lên được đỉnh núi tuyết và sống bốn mùa êm ả trên đó. Thế rồi, giờ của định mệnh đã điểm. Tappan đã cứu được con lừa Janet qua khỏi cơn bão tuyết, đưa nó từ đỉnh núi băng giá xuống thung lũng mượt xanh. Con lừa được ăn cỏ và sống, còn chủ nó đã chết vì kiệt sức.

“Mình là con lừa Janet hay là chàng Tappan?” Đoàn Quốc băn khoăn tự hỏi. “Mình sẽ vượt qua thung lũng của sự chết – cái đất nước khốn khổ này. Mình đến được đó là đủ rồi. Rồi ra sao thì ra, miễn là thoát được cơn bão khốn kiếp này. Là con lừa Janet may mắn hay chàng Tappan xấu số cũng được.”

Martha! Martha. Bên kia bờ sông có tiếng vọng lại “Martha! Martha”. Con sông tâm tưởng. Chương lúc đó đang ngồi ngửa mặt nhắm mắt lười biếng trên chuyến xe buýt liên tiểu bang – Con sông xuân tràn đầy chảy lênh láng, màu nước biêng biếc như tóc mềm (tóc Martha) gặp gió xõa trên bờ vai. Chương biến thành gió, luồn tay vào mái tóc đó, bàn tay vô hình mơn man êm dịu… Springfield – cánh đồng mùa xuân – thủ phủ của Illinois thật hữu tình và có tính cách tiền định.

Đến Springfield để trả món nợ tình… Thời gian, không gian giờ đây là của hai người. Chương nghiêng đầu sát tới nói thầm bên tai Martha:

– The closer I get, the better you look.

Chàng có một cử chỉ “nhào đại”, muốn hôn lên miệng Martha…

– A… a… a… a…

Chương tìm lại hương vị thơm đắng của cà phê trên môi Martha, một bàn tay Chương xoa lên bờ vai rồi vòm ngực tròn trịa của nàng

– Về nhà đã Chương, Martha van vỉ.

Chương lắc đầu giữ chặt lấy nàng, không đáp. Martha cảm thấy những ánh sao lóe sáng rụng lả tả… rụng lả tả trên khắp vùng da thịt…

…..

Đoàn Quốc tiếp tục đọc hơn trên hai trăm trang bản thảo. Như trở về chốn cũ. Anh gặp lại người xưa. Ngỡ ngàng như quen thuộc, gần gũi mà xa xôi. “Dòng sông tâm tưởng. Martha, Martha!” Tiếng vọng từ bên kia dòng sông, hay từ bên kia đại dương, của quá khứ nhạt nhòa đứt đoạn.

Ngoài đường đã bắt đầu tiếng xe chạy. Tiếng xích lô máy nổ lẻ loi, vang động. Đoàn Quốc nghe cột sống lưng tê cứng, nhưng không thấy buồn ngủ. Châm bình trà mới, đốt một nén hương đuổi muỗi. Bẩy năm rồi đã ngủ triền miên để thức trọn đêm nay. Để thấy lại bầu trời. Cánh đồng mùa xuân và Martha, thung lũng tử thần và anh chàng Tappan tội nghiệp.

Gần sáng, Đoàn Quốc nẩy ý định viết tiếp “Dấu chân cát xóa“. Chương trở về nước làm giáo sư kiêm nhà văn. Lúc giải phóng Sàigòn, hắn ta bị kẹt lại đi học tập cải tạo. Bẩy năm qua chẳng là tấn bi kịch của cuộc đời được tiếp nối đó sao? Mặt trời đã lặn, nhưng mặt trời không tắt hẳn. Nó sẽ mọc lại vào bình minh hôm sau. Tappan đã vượt qua Thung lũng Tử thần nóng bỏng, chết chóc để lên tận đỉnh non cao bốn mùa êm ả. Dẫu là đêm, nhưng mặt trời vẫn tồn tại…”Đường lên mặt trời” – Đoàn Quốc đã chọn để làm tựa đề cho chương tiếp của “Dấu chân cát xóa“.

Trên đây là một phần chương IV-NTBKCB. Nhân vật chính của chương này là giáo sư – nhà văn Đoàn Quốc. Trong số năm tên chúng tôi bị gọi là “Những tên Biệt kích cầm bút”, Đoàn Quốc là người được diễn tả đời tư với những lời tương đối sạch sẽ, tử tế nhất. Không chỉ những giới thiệu đàng hoàng mà thôi dường như hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên còn có vẻ thán phục và đề cao Biệt kích Đoàn Quốc. Kể từ 1954 – trước đó bỏ, ta chỉ tính sổ bụi đời từ năm 1954 – đến năm nay 1996 là 42 mùa thu lá bay ông Đoàn Quốc dậy học, viết văn, in sách, đi tù ở Sàigòn nói riêng và trong nước nói chung, rồi ra hải ngoại, định cư ở Houston, Texas, hai ông bà được mời đi khắp nơi gặp lại bạn hữu v.v… Suốt 42 mùa thu đó ông Đoàn Quốc không bị một lời chỉ trích, chê bai, kể cả xuyên tạc, vu khống, ghen tị, bới lông tìm vết, móc lò bậy bạ. Ngay cả đến đại tá công an Việt cộng khi viết về người tù Đoàn Quốc cũng viết với những lời lịch sự như ta vừa thấy. Trong khi ấy, thì bốn tên văn nghệ sĩ Khuất Duy, Dương Hùng, Trần Ngọc Thự, Hoàng Hải cùng được xe bông công an thành Hồ đến tận nhà rước đi trong một đêm với ông Đoàn Quốc bị diễn tả như những tên lưu manh, láu cá, đá cá lăn dưa hết sức tồi tệ. Khốn nạn nhất là anh cu Hoàng Hải. Anh này không những bị chửi về đời tư bê bối mà thôi, bọn bắt giam và viết về anh còn lôi cả ông ngoại anh vào những trang NTBKCB.

Tác phẩm Dấu Chân Cát Xóa của Doãn Quốc Sĩ đã được ấn hành ở hải ngoại. Tháng Năm 1995 anh chị Doãn Quốc Sĩ đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Trong sáu niên tù đầy lần thứ hai tôi ở chung phòng với Trí Siêu Lê Mạnh Thát năm năm, chung phòng với Doãn Quốc Sĩ hai năm. Không một lần nào chúng tôi hẹn nhau, dù chỉ là hẹn đùa cho dzui: “Chúng ta sẽ gặp nhau ở Mỹ…”. Dzậy mà… định mệnh an bài… Nàm thao em piết….!

Tôi không hay đọc tác phẩm của người viết cùng thời. Trước năm 1975, tôi chỉ đọc những quyển “Tình cao thượng, Mối tình mầu hoa đào, Hòa bình, nghĩ gì, làm gì?” của Nguyễn Mạnh Côn, Thương Nhớ Mười Hai của Vũ Bằng. Những ngày u buồn trống rỗng, đen tối khủng khiếp sau Ba Mươi tháng Tư 75 quẩn quanh trong căn nhà nhỏ, không có việc gì làm, không biết đi đâu, tôi lấy sách cũ ra đọc. Vớ được quyển “Sầu Mây” của Doãn Quốc Sĩ trong tủ sách, tôi nằm đọc “Sầu Mây“.

Năm 1981, anh Sĩ từ trại cải tạo Gia Trung Pleiku-Kontum trở về. Tôi gặp lại anh ở nhà anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Tôi nói với anh:

– Trong “Sầu Mây” cái đoạn nhân vật chính, anh chàng gì đó, sang Mỹ du học, làm tình với em đầm Mỹ, anh tả: “Lúc ấy chàng cảm thấy như nước tình yêu chan hòa trên mặt các lãnh tụ của cả hai miền Nam Bắc…” Tôi thấy hơi quá đáng. Hai nữa, theo tôi nghĩ, thằng đàn ông nào đến giây phút ấy còn bị ám ảnh về chuyện chính trị thì đó là tên khổ sở nhất đời.

Nhà mô phạm tả chuyện đàn ông, đàn bà làm tình rạo rực, rộn rịp mê ly đâu có kém gì những nhà văn nữ. Bằng chứng như ta đã thấy. Công an Việt cộng khi trích “Dấu chân cát xóa” đã bỏ qua những đoạn có tư tưởng chính trị để trích đoạn nhân vật Chương trở lại Springfield, Illinois, với đầm Mỹ Martha. Anh Con Trai Bà Cả Đọi xin chiếu lại hầu quý vị đoạn phim này:

Martha! Martha. Bên kia bờ sông có tiếng vọng lại “Martha! Martha”. Con sông tâm tưởng. Chương lúc đó đang ngồi ngửa mặt nhắm mắt lười biếng trên chuyến xe buýt liên tiểu bang – Con sông xuân tràn đầy chảy lênh láng, màu nước biên biếc như tóc mềm (tóc Martha) gặp gió xõa trên bờ vai. Chương biến thành gió, luồn tay vào mái tóc đó, bàn tay vô hình mơn man êm dịu… Springfield – cánh đồng mùa xuân – thủ phủ của Illinois thật hữu tình và có tính cách tiền định. Đến Springfield để trả món nợ tình… Thời gian, không gian giờ đây là của hai người. Chương nghiêng đầu sát tới nói thầm bên tai Martha:

– The closer I get, the better you look.

Chàng có một cữ chỉ “nhào đại”, muốn hôn lên miệng Martha…

– A… a.. .a… a…

Chương tìm lại hương vị thơm đắng của cà phê trên môi Martha, một bàn tay Chương xoa lên bờ vai rồi vòm ngực tròn trịa của nàng

– Về nhà đã Chương, Martha van vỉ.

Chương lắc đầu giữ chặt lấy nàng, không đáp. Martha cảm thấy những ánh sao lóe sáng rụng lả tả… rụng lả tả trên khắp vùng da thịt…

Năm 1970 Nhật báo Sống của anh Chu Tử đang ở giữa thời kỳ phồn vinh nhất trong cuộc sống ngắn ngủi của nó. Năm ấy ngoài truyện võ hiệp Kim Dung như các báo khác, Sống đăng truyện dài nơi trang trong của Nguyễn Thụy Long, Hoàng Ly, Anh Hợp, Hoàng Hải Thủy. Báo Sống bán được có tiền, anh Chu Tử tăng cường hai cây bút nặng ký: Nguyễn Mạnh Côn và Bùi Giáng.

Anh Côn viết loạt bài không hẳn là khảo luận, không ra luận thuyết mà cũng không phải là tiểu thuyết, dưới cái tên long trọng là “Tuyên ngôn của Tình Yêu và Ánh Sáng”. Anh Bùi Giáng viết tiểu thuyết võ hiệp. Anh Chu Tử có cái hay là khi anh đã nhờ ai viết cho báo anh thì người đó hoàn toàn tự do muốn viết gì thì viết, anh không bao giờ can thiệp vào việc viết của anh em. Thi sĩ Lá Hoa Cồn, người có câu thơ bất hủ tả trong một đêm mà “… Cồn lê lên miệng đến ba bốn lần” – Một hai lần chắc còn ngắc ngoải được, một đêm mà đến ba bốn lần chắc chết – người từng dịch “Antoine et Cléopatre” ra “Sương Tì Hải”, viết tiểu thuyết võ hiệp không giống ai, anh dùng rất nhiều tiếng “tồn liên, liên tồn” trong truyện. Kể cả bọn tôi, bọn thợ viết, đọc truyện anh đăng trên báo Sống cũng chịu không biết anh tả chuyện gì, nhân vật nói với nhau lời gì, ân oán ra sao.

Tôi có dịp gần anh Nguyễn Mạnh Côn khá nhiều. Trong số những người trẻ từng gần anh Côn như Nguyễn Đình Toàn, Trần Dạ Từ, Duyên Anh chỉ có tôi là người cùng đăng lính Cô Ba với anh Côn. Tôi dám nói chắc mà không sợ mấy ổng kiện là những ông văn nghệ sĩ lớn như các ông Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng, Chu Tử, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, kể cả hai ông thi sĩ mần thơ Tình Yêu vi vút nhất là Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… đều là những ông đàn ông ít biết về đàn bà nhất và biết ít đàn bà nhất.. Xin nói rõ: biết ít đàn bà nhất. Ông nào cũng vừa mới mười chín, đôi mươi là có vợ hiền, suốt đời cơm nhà, quà vợ. Dzậy mà kể cũng lạ và cũng hay: các ông vẫn viết về tình yêu và đàn bà loạn cào cào.

Tôi chịu khó đọc những bài “Tuyên ngôn vềTình Yêu và Ánh Sáng” của anh Côn đăng trên báo Sống. Một sáng tôi gặp anh đến tòa báo, tôi bảo anh:

– Ông ơi…Ông làm ơn viết “Tình Yêu Ánh sáng” cẩn thận giùm con một tí…

Đa số người viết thích thú khi gặp người đọc mình – khen càng tốt, chê, chỉ trích cũng được. Miễn là có đọc mình – chê đúng thì nghe, bậy bạ bỏ qua – Anh Côn tỏ ra hào hứng nghe tôi phê bình những gì anh viết. Muốn phê phán văn anh ngoài việc đọc anh người phê còn phải có công lực kha khá. Trong bài Nguyễn Xuân Hoàng phỏng vấn anh Côn đăng trong Nhật báo Công Luận — khoảng năm 1968-69 — anh Côn có nói: “Trong số những người trẻ tôi vẫn mến và cho là viết được, tôi không ngờ Hoàng Hải Thủy lại là người đọc tôi kỹ nhất…”

Khi nghe tôi nói câu trên về “Tình Yêu và Ánh Sáng” tại xe cà phê-nước ngọt trên vỉa hè trước cửa tòa soạn báo Sống – Nhà in Tường Anh đường Gia Long – Anh Côn hỏi tôi:

– Chuyện gì thế?

– Ông đưa ra mấy cái đền gì đó ở Ấn Độ có cả mấy trăm bức tượng nam nữ mần tình đủ kiểu, ông kết luận: “Tại dân Ấn biết cách làm tình nên họ thông minh!” Ông viết thế là thế nào? Tại vì họ biết làm tình nhiều kiểu cho khoái lạc nên họ thông minh hay vì họ thông minh nên họ biết cách làm tình? Ông viết như thế bọn trẻ nó đọc ông, nó sẽ thấy muốn thông minh nó phải làm tình thật nhiều, làm đủ kiểu. Làm tình như thế nó sẽ trở thành thằng điếm đực chứ không thể trở thành người thông minh.

Anh cười:

– Được rồi. Ông nói thế tôi cũng biết thế. Tôi không nhớ tôi có viết đúng như ông nói hay tôi viết khác. Tôi về đọc lại rồi sẽ nói chuyện với ông….

Tôi định nói: “Cả đời anh chỉ biết có mỗi một người đàn bà thôi mà anh cứ viết bừa tăng tít về đàn bà…” nhưng sợ câu đó quá hỗn, tôi nói một câu nhẹ hơn:

– Anh chẳng biết đ.. là cái gì mà anh cứ viết loạn cào cào về đ…

Sáng nay, một buổi sáng hai mươi sáu mùa lá rụng sau buổi sáng năm 1970 tôi gặp anh Côn ở trước cửa tòa soạn báo Sống, ngồi viết ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, tôi thấy hiện lên trong tôi ánh mắt sau làn kính cận và miệng cười vui của anh Nguyễn Mạnh Côn. Rồi tôi thấy hiện lên hình ảnh của anh trong Nhà Giam Số 4 Phan đăng Lưu năm 1977: buổi sáng chủ nhật, khoảng 10 giờ, cai tù mở cửa phòng cho tù nhân ra sân ngồi phơi nắng chừng nửa tiếng. Từ sà-lim nhìn ra qua ô cửa gió tôi thấy anh Côn ngồi bên lối đi, anh bận bộ đồ ngủ nâu. Đó là hình ảnh cuối cùng của anh trong ký ức tôi. Vài ngày sau anh Côn bị đưa lên trại cải tạo Xuyên Mộc và anh chết ở đó.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 17)

Trích “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút

Cuộc họp giao ban thường lệ buổi sáng của Ban An Ninh công an thành phố. Chỉ huy các đơn vị trực thuộc đã đông đủ. Màn che tấm bản đồ thành phố đóng khung trải gần kín cả bề mặt vách tường được kéo ra. Cán bộ tham mưu thuyết trình về những diễn biến mới nhất trong hai mươi bốn giờ qua.

Chỉ huy trưởng lắng nghe. Bản báo cáo ngắn gọn. Thông thường đồng chí sẽ phát biểu một số vấn đề rút ra từ tình hình được phản ánh và ra những chỉ thị cần thiết. Cuộc họp chỉ kéo dài 15 phút.

Sáng hôm ấy cũng vậy. Nhưng khi chỉ huy các đơn vị rời phòng họp thì đồng chí Tư Tuân, phụ trách đơn vị chống phá hoại tư tưởng được mời ở lại.

Chỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.

– Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?

– Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng…. Tư Tuân định hỏi “có vấn đề mới gì không?” nhưng anh thấy câu hỏi ấy thừa, bởi chỉ huy trưởng đã mời ở lại, hẳn phải có “vấn đề” cần trao đổi. Vì vậy anh bỏ lửng câu nói, nhìn đồng chí cấp trên của mình, chờ đợi.

– Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng đó là khói của đốm lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải chú ý tới nó.

– Vâng, Tư Tuân vừa nói, vừa lắc đầu – Thú thật với anh, tôi chán ngấy mà vẫn phải đọc. Anh em Việt kiều về thăm quê hương cũng nói với tôi, họ chẳng bao giờ thèm để mắt tới món hàng ôi đó! Thế nhưng những tên bồi bút đã nhẵn mặt và số em út mới ngoi lên lại vẫn sản xuất ra những món hàng này để lên dây cót tinh thần lẫn nhau, gây ảo tưởng cho nhau. Chỉ một số người di tản bị lừa bịp, còn đa số những người khác không xa lạ gì với những lời dối trá ấy. Đọc những thứ ấy giống như phải mổ một xác chết thối rữa để giám định y khoa. Chán thật.

– Ừ. Chán thật. Kể ra, ta đâu có lạ gì chúng nó.

Đột nhiên đồng chí chỉ huy trưởng đặt một câu hỏi mà thoạt nghe, tưởng đâu như ngoài đề câu chuyện đang trao đổi:

– Anh Tư còn nhớ vụ áp phe Martine Bokassa năm nào chớ?

Nghe người chỉ huy hỏi. Tư Tuân sực nhớ câu chuyện cũ mà báo chí Sàigòn thời ngụy đã đăng tải dài dài, nhưng anh chưa hiểu đồng chí chỉ huy trưởng của mình nhắc lại câu chuyện giật gân ấy với dụng ý gì.

Bokassa nguyên là một trung sĩ trong quân đội viễn chinh Pháp. Những năm sống ở Việt Nam, trong những mối quan hệ “nhân tình” ông đã gửi lại Sàigòn một đứa con gái. Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ, Bokassa trở về quê hương. Một thời gian sau, ông được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa Trung Phi. Nhớ đến giọt máu còn để lại ở Việt Nam, ông ngỏ ý nếu ai tìm ra và đưa được người con gái của ông về Trung Phi ông sẽ hậu tạ.

Như vớ được một món bở, sứ quán một nước tư bản ở Sàigòn, lúc bấy giờ đã tìm một cô gái lai da đen đưa sang Trung Phi và bảo đó là con của vi đương kim Tổng thống nước này. “Sứ giả” được đón tiếp nồng nhiệt và trả công rất hậu. Người con gái da đen xấu số đang sống lam lũ ở một xóm nhà lá của Sàigòn, nghiễm nhiên trở thành “ái nữ” của một Tổng Thống. Báo chí gọi cô ta là Công chúa Lọ Lem của thời đại.

Ít lâu sau, bọn CIA lại tìm một cô gái da đen khác với đủ bằng chứng khẳng định cô Martine Bokassa thứ hai đó là con gái của Tổng thống Bokassa. Việt Định Phương, chủ nhiệm tờ báo Trắng Đen, cầm đầu phái đoàn nhận lãnh “sứ mạng” đưa cô gái ấy sang Trung Phi. Cùng đi với Việt Định Phương còn có bà mẹ của cô gái. Bokassa nhận ra người “vợ” cũ và thừa nhận cô gái bà ta là Martine Bokassa chính hiệu. Tuy thế, ông ta vẫn xử sự đẹp với cô gái thứ nhất: nhận cô ta làm con nuôi. CIA đã thắng lớn và kéo hẳn Bokassa về với nước Mỹ, đẩy lùi uy tín của nước tư bản kia. Song CIA không phải dừng lại tại ấy. Sau này cô gái ấy lấy một viên thiếu tá thân Mỹ và nghe đâu chính người con rể này đã làm cuộc đảo chính Bokassa. Xứ Trung Phi giầu kim cương đã rơi vào khu vực ảnh hưởng của Mỹ. Chắc rằng Việt Định Phương cũng kiếm chác khá nhiều đô la, chưa kể số kim cương do Bokassa thưởng công.

– Đấy! Vẫn giọng trầm dịu, đồng chí chỉ huy trưởng nói tiếp – Nay vẫn tên Việt Định Phương là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Trắng Đen. Lại cũng vẫn Mai Thảo, Trần Bích Loan của nhóm “Sáng Tạo” do USIS dựng lên… Vẫn nhưng quân bài ấy trên tay bọn chủ cũ đang múa may ở Mỹ. Chúng đã sử dụng ngòi bút để tập hợp bọn phản động ở nước ngoài. Chính tên Việt Định Phương ấy núp dưới biệt danh Trúc Việt đã tô son vẽ phấn cho tên Võ Đại Tôn, suy tôn hắn thành “người hùng phục quốc”, móc nối Võ Đại Tôn với Vàng Pao, đặt Tôn lên lưng cọp rồi đẩy hắn về Việt Nam để phá hoại. Âm mưu chưa thực hiện được thì Võ Đại Tôn đã bị ta tóm cổ trên đường thâm nhập.

Tư Tuân xen vào:

– Sau Võ Đại Tôn, chắc chúng sẽ nặn ra con rối khác.

– Đấy, đấy! – chỉ huy trưởng ngắt lời – Vấn đề là chỗ ấy. CIA đâu từ bỏ những tên âm binh ấy, cháy tên này thì chúng tạo ra tên khác đế… nướng tiếp. Không hiểu sau vụ ấy, cái tên chủ báo Trắng Đen kia nhận được bao nhiêu đô la nhỉ?

– Cái đó thì chịu. Nhưng có tin nhiều tên trong bọn phản động lưu vong định vặt lông tên đểu cáng ấy, khiến nó phải lỉnh ở xó xỉnh nào đó, ít thấy xuất hiện. Nghe nói nó chuồn qua Châu Âu rồi.

– Chắc thế thôi. Dẫu sao con rối ấy đã diễn xong phần kịch bản mà bọn chủ dành cho nó. Và đến lượt một con rối khác. À, mà tên thật của nó là gì nhỉ?

– Dạ, Phạm Thu Trước.

– Anh nhớ khá nhỉ, – Chỉ huy trưởng cười.

– Thật tình tôi không muốn nhớ những tên ấy, nhưng vẫn phải nhớ. Thật là “tai nạn nghề nghiệp”

– Sao “ông bạn” lại coi là tai nạn nhỉ? – Chỉ huy trưởng cười thông cảm và nói tiếp – Cuộc đấu tranh còn tiếp tục, thì ta còn phải tiếp tục nhớ đến chúng. Dầu cho bọn này chết già, chết ráo, cũng vẫn chưa xong. Lại có một số tên khác mới nẩy lên, không chỉ ở bên đó mà ngay cả ở đây – Chỉ huy trưởng lật những trang của tờ “Kháng Chiến” và dừng lại ở trang in bài ký tên Trần Tam Tiệp – Như tên này, anh Tư có biết không?

Tư Tuân kéo tờ báo đến trước mặt, đọc lướt vài dòng. Cái tên Trần Tam Tiệp ấy nghe rất lạ. Anh cố nhớ nhưng vẫn mù tịt. Chỉ huy trưởng nói tiếp:

– Tên này chưa từng xuất hiện trên làng văn, làng báo Sàigòn trước đây. Thật ra, trước đây hắn cũng có viết đôi bài báo nhưng đều ký tên người khác. Tôi cũng mới biết qua về lai lịch của hắn. Hắn nguyên là Trung tá An ninh Không quân ngụy. Điều này đã được bộ tàng thư xác định. Ấy thế mà nay nó lại là Tổng thư ký cái “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” đóng trụ sở ở Paris. Công khai đấy, khỏi cần kiểm chứng, vì chúng treo bảng hiệu đàng hoàng. Và Tiệp đã xách cặp đi dự hết hội nghị này đến hội thảo kia, còn chủ tịch của nó là Trần Thanh Hiệp mà mọi người đều biết là một trong những tay sai lâu năm của sứ quán Mỹ ở Sàigòn. Đằng sau bảng hiệu ấy là gì, đó lại là chuyện khác. Trong bài báo này, Tiệp lên tiếng đòi ta tha cho số bồi bút phản động đã bị bắt và cho bọn ấy ra nước ngoài. Láo thật. Anh đọc qua bài biết của nó đi, rồi ta bàn.

Tư Tuân đọc lướt mấy trang báo. Cũng những luận điệu vu cáo rẻ tiền. Cả cái lối hành văn, thuật ngữ đã quen thuộc đối với anh. Từ khi được giao phụ trách đơn vị này, anh đã chịu khó đọc hàng lô sách, tiểu thuyết của số “nhà văn” cũ và sách báo mới được bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài. Thật là chán đến buồn nôn. Nhưng anh vẫn ráng đọc “để xem chúng thế nào”. Rặt một lũ chống cộng cuồng si, thể hiện lộ liễu ý thức phản động cao độ. Đã có anh em nói đùa rằng “anh Tư đang trở thành nhà nghiên cứu văn học thực dân mới” Cũng không ngoa đâu vì đến nay Tư Tuân có thể quen thuộc khuynh hướng, bút pháp những tên “nổi tiếng”. Nhưng cái tên Trần Tam Tiệp này thì anh chịu.

Khi Tư Tuân đọc xong, chỉ huy trưởng hỏi:

– Anh thấy thế nào?

– Thằng này láo, – Tư Tuân buột miệng.

– Đành thế. Nhưng cái mà chúng ta quan tâm là sự tác động ngầm đối với những người ở lại đây, mặc dầu những người ấy không cần và không muốn nó bảo vệ. Sau gần mười năm sống dưới chế độ mới, họ đã tìm câu kết luận cho chính họ, họ đã tạo dựng một cuộc sống mới. Nhiều người tiếp tục theo đuổi nghề văn, nghề báo, một số đã chuyển sang nghề khác vì thấy phù hợp với họ hơn; trừ một số ít ngựa quen đường cũ, bị rủ rê, có người không đủ nghị lực, lại chứng nào tật ấy. Có người phải di chuyển đến một nơi xa xôi nào đó để cắt mối liên lạc cũ. Thậm chí có người tự nguyện trở vào trại.

Thế đấy. Cuộc sống nào cũng có quy luật riêng của nó. Ở đây là quy luật của bọn phản cách mạng, bọn vong quốc lang thang ở các nước Tây phương. Do bản chất và chịu sự tác động của bọn chủ, chúng còn biết làm gì khác, nếu không tiếp tục chống lại tổ quốc bằng cách thò vòi, kích động, móc nối những đồng bọn của chúng còn lại ở trong nước. Nếu ta chặt đứt những cái vòi ấy, chúng sẽ tịt ngòi.

– Vâng. Tôi nắm được vấn đề anh gợi ý. Xin anh cho tôi có thời gian nghiên cứu thêm.

Chỉ huy trưởng đứng dậy, trao cho Tư Tuân cả mớ báo ấy và dặn:

– Anh mang về đọc hết đi. Tôi chỉ xem qua, nhưng thấy có một số bài có giọng văn quen quen. Trong hoàn cảnh đất nước ta mọi sự phức tạp hơn chứ chẳng phải là chuyện văn chương nhảm nhí. Có những tín hiệu có ích cho chúng ta đấy! Tôi sẽ gửi thêm cho anh những tin tức từ bên ngoài để anh nắm thêm. Ta sẽ có dịp bàn tiếp.

Tôi bỏ qua không điểm khoảng 40 trang hai anh cớm cộng viết tưởng tượng lèm bèm về anh em chúng tôi. Chương VIII của NTBKCB quý bạn vừa đọc gồm 8 trang, đánh số từ 74 đến 81.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 18)

Trong Chương VIII hai anh đại tá công an Việt cộng đả động đến một số văn nghệ sĩ ở hải ngoại. Những ông văn nghệ sĩ đẻ bọc điều này, nhanh chân bỏ nước chạy lấy người, phú lỉnh được sang Pháp, sang Mỹ. Nếu các ông bị kẹt giỏ ở Thành Hồ chắc chắn tên tuổi các ông không được Cớm ViXi nhắc đến trong quái phẩm chúng gọi là “Truyện” này. Kẹt giỏ, các ông cũng giã từ vòng tay ấm, vòng tay lạnh của bà vợ gầy để đi tù mút mùa Lệ Thu như chúng tôi thôi.

Những người bị nhắc đến trong chương này là Việt Định Phương, em Martine Bokassa, rồi “Mai Thảo, Trần Bích Loan của nhóm Sáng Tạo do USIS dựng lên…” – tên cúng cơm của thi sĩ Nguyên Sa được Cớm Cộng thêm vô một chữ O to tổ bố – Võ Đại Tôn, đặc biệt luật sư Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch – dường như anh là chủ tịch tiên khởi, tức bom-nhe, thứ nhất – của Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại – tôi không biết nên sài ở đây tiếng “bị” hay tiếng “được” với việc bọn Cớm Cộng nhắc đến Luật sư Trần thanh Hiệp và Hội Văn Bút: “… chủ tịch của nó là Trần Thanh Hiệp mà mọi người đều biết là tay sai lâu năm của Sứ quán Mỹ ở Sàigòn…”

Tôi thú nhận trong những gì tôi viết ra cứ 10 phần thì có 5 phần diễu cợt, bông lơn, tán nhảm, đấu hót lia chia, 3 phần do tôi phịa ra, chỉ có may mắn hai phần là sự thật. Song ở cái bài viết hôm nay – một sáng chủ nhật mùa xuân ở vườn đất xứ Mẽo Virginia của những người Mẽo yêu nhau, người Mít ở nhờ – tôi long trọng xin lỗi tất cả quý vị – nhân sĩ quốc gia, quốc dzô và bạn hữu, thân cũng như sơ – những người đã bị công an Việt cộng vu khống, bôi bẩn vì các vị có liên can xa gần đến anh em chúng tôi. Các vị đã phải chịu một tình trạng mà bọn tù nạn nhân cộng sản chúng tôi trong những nhà tù gọi là “bị văng miểng”. Miểng đây là miểng lựu đạn. Bọn xấu quẳng lựu đạn vào gầm bàn bọn ngồi ăn nhậu ở cùng phòng ăn với các vị. Chúng định giết bọn kia nhưng vì các vị ngồi gần bọn kia nên các vị bị miểng lựu đạn nổ dzăng trúng, thường thì các vị bị trúng miểng lựu đạn nơi gọi là ti-bịa, các bà các cô thường bị trúng vào chỗ để ngồi.

Và “đặc bịt” Chương BKCB này đụng đến nhà văn Mai Thảo. Tôi nghe nói ông có làm bài thơ gì đó trong có hai câu:

Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta lịch sử chép ngàn chương.

Đời ông lịch sử chép ngàn chương là chuyện tất nhiên kiêm tự nhiên, chuyện chắc như bắp rang, như gạch tầu, như đinh 10 phân đóng cột gỗ lim. Trong số ngàn trang ấy tôi xí phần viết về ông vài ba trang lấy thảo.

Cả đời tôi không có một trang truyện nào ký tên tôi được xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Đúng thôi. Những gì tôi viết đều thuộc loại “hàng chợ”, mà đã là “hàng chợ” tức là hàng rẻ tiền, hổng phải thứ hàng nghệ thuật cao giá. Ba mươi mùa cóc chín trước đây ở Sàigòn tôi nghe nói – tôi chỉ nghe nói lại thôi, người nói không nói trước mặt tôi – ông Sần Foóng, tức Trần Phong Giao, báo Văn, tòa soạn ở đường Phạm Ngũ Lão trước rạp xi nê Thanh Bình – xếp hạng tôi – Hát Hát Tê – hổng phải là “nhà văn”. Nghe nói lại câu đó, không những tôi không buồn mà trái lại tôi còn coi ông Sần Foóng như người tri kỷ. Tôi hổng phải là nhà văn và chưa một lần tôi tự nhận là nhà văn. Cho đến bây giờ tôi vẫn tự nhận tôi là người viết tiểu thuyết. Khi bị gọi là “nhà văn” tôi thấy ngượng. Bởi vậy việc tôi không có mặt trên tạp chí Sáng Tạo của ông Mai Thảo là hợp lý.

Và cũng bởi vậy, tôi không được giao du thân mật với ông chi nhiều, tôi hân hạnh được ông gọi bằng mày, xưng tao nên “kính trọng không bằng vâng lời”, tôi cũng xưng tao với ông và kêu ông bằng mày.

Nhà văn Mai Thảo, tháng Ba, tháng Tư năm 1975, chỉ có một thân, một mình, không vợ, không con. Dường như tháng ấy, ngày ấy ông cũng chẳng có nhân tình, nhân bánh gì cả. Vậy mà nhiều ông văn nghệ sỡi vợ con đùm đề, có ông còn đèo bòng vợ lớn, vợ bé, vẫn bỏ nước chạy lấy người thoát thân, ông Mai Thảo cu ky đờ luých vẫn cứ lang thang trên những vỉa hè Sàigòn thất thủ. Trước ngày 30 Tháng Tư 75 ông ngụ trong một phòng ở Nhà Chiều Tím cạnh phở 79 đường Võ Tánh. Sau Tháng Tư đen hơn mõm chó ông về ở một phòng trong căn nhà của ông anh ông — ông Nguyễn đăng Viên — đường Phan Đình Phùng.

Từ 30 Tháng Tư năm 1975 ông Mai Thảo cũng sống lêu bêu, vất vưởng không khác gì các ông văn nghệ sĩ VNCH lớn nhỏ khác. Phải nói rõ, những ông văn nghệ sĩ được nói đây là những ông văn nghệ sĩ xi -dzin, tức là thường dân, lại có nghĩa là không ở trong quân đội. Những ông văn nghệ sĩ quân nhân còn kẹt lại một tháng sau ngày Việt cộng vào Sàigòn đã lên đường đi cải tạo hết. Ngày tháng phất phơ không có việc làm, các ông văn nghệ sĩ bắt chước các thầy Min Đơ, Min Toa đạp xế đạp đi lang thang tìm nhau, gặp nhau ở những quán cà phê vỉa hè, đi ăn nhậu cũng vỉa hè cho đỡ buồn. Thường dân Sàigòn thất nghiệp cũng mần y như những ông văn nghệ sĩ cho qua thì giờ. Nghĩa là thường dân ngày ngày cũng không có việc làm, cũng đạp xế đi lang thang, cũng ngồi cà phê vỉa hè cả buổi tán dóc cho đỡ buồn. Gặp nhau tất nhiên là hỏi thăm kẻ còn, người phú lỉnh, người đi cải tạo, rồi trao đổi những tin đồn. Thường dân làm như thế thì không sao, nhưng văn nghệ sĩ làm như vậy là không được, văn nghệ sĩ không có quyền tụ tập, trao đổi với nhau những tin đồn.

Những ngày ấy Sàigòn có thật nhiều tin đồn. Đại khái vài tin: quân ta còn rất đông trong rừng sẽ kéo về một ngày rất gần, Rằn ri xuất hiện ở ngay Cát Lái, Thủ Thiêm, phi cơ thả dù đồ tiếp tế xuống Dốc Mơ, Đà Lạt v.v… Ai sáng tác những tin đồn ấy? Tôi không biết. Tôi chỉ biết những ông văn nghệ sĩ kẹt giỏ Sàigòn không phải là những người sáng tác tin đồn. Các ông loan truyền những tin đồn các ông nghe được thì có, sáng tác thì không.

Hai ký giả Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến bị tóm ngay từ những ngày đầu tháng Năm 1975.

Tiếp theo là Uyên Thao, Vũ Ánh, Đoàn Kế Tường, Văn Chi. Nếu các ông Chu Tử, Hồ Anh, Phạm Duy còn kẹt lại ở Sàigòn tôi chắc bọn công an đặc vụ từ Hà Nội vào cũng đem xe bông đến tận nhà các ông, ưu ái đưa các ông đi cất ngay mà không đợi đến mùa ổi chín năm sau.

Tháng Ba năm 1976, công an Vixi mở chiến dịch bắt văn nghệ sĩ Saigon. Trước khi viết đến chiến dịch bắt bớ này, tôi ghi lại vài dòng về vụ nổ bom làm chết người mà bọn công an Việt cộng nói là có dính líu đến một số văn nghệ sĩ. Tôi xin nói ngay những gì tôi viết đây là những gì cá nhân tôi được nghe nói. Những sự kiện này không có gì bảo đảm là chính xác.

Vụ nổ xẩy ra ở Hồ Con Rùa đường Duy Tân. Cả Thành Hồ xã hội chủ nghĩa chỉ có một tờ nhật báo Saigon Giải Phóng. Tờ báo này không loan một mẩu tin nào về vụ nổ ở Hồ Con Rùa, nên người dân chỉ biết về vụ nổ qua những tin truyền miệng mơ hồ. Nghe nói có nhiều người chết oan. Vụ nổ Hồ Con Rùa xẩy ra vào khoảng đầu năm 1976. Vài tháng sau chiến dịch bắt bớ văn nghệ sĩ Sàigòn được tiến hành.

Huỳnh Bá Thành, dân Quảng Nam, trước năm 1975 vẽ biếm họa ký tên họa sĩ Ớt ở nhật báo Điện Tín do Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm. Trước năm 1975, làng báo Sàigòn có những họa sĩ Chóe, Tuýt, Hĩm, anh họa sĩ Ớt không sao nổi lên được. Việt cộng vào Sàigòn, anh cu Ớt trở thành công an nằm vùng Huỳnh Bá Thành. Quyển “Vụ án Hồ Con Rùa” do Huỳnh Bá Thành viết là quyển truyện mở đầu một lô những quyển “Vụ án đủ thứ” sau đó.

Vụ nổ xưa rồi. Đã hơn hai mươi mùa lá rụng trên đường Duy Tân cây dài bóng mát. Riêng tôi, tôi có hai điều cần viết về vụ nổ Hồ Con Rùa:

– Người anh em nào gài chất nổ tại sao không cho nổ ở một cơ sở nào của Việt cộng? Bất cứ cơ sở nào cũng được, không cần phải là cơ sở quan trọng. Ngay gần đó, có Nhà Thanh Niên của ta bị Việt cộng chiếm làm nhà triển lãm thường trực Tội Ác Mỹ Ngụy. Tại sao người anh em không làm cử chỉ đẹp, cho chúng tôi được vinh hạnh theo là cho nổ trong cái phòng triển lãm ấy? Biết là khó đấy nhưng anh em cho nổ ở công trường Hồ Con Rùa, người bị chết chỉ là anh em, con cháu chúng ta thôi.

Công an Việt cộng không bắt được ai là người đặt bom ở Hồ Con Rùa. Vụ án chìm dần trong quên lãng và thời gian. Bọn cộng sản có cái bệnh chung là chuyên giấu giếm, che đậy những sự kiện xấu xảy ra trong xã hội chúng cầm quyền. Việt cộng tiết lộ rất mơ hồ về vụ nổ Hồ Con Rùa cũng như về vụ cô đào Thanh Nga cùng ông chồng Đổng Lân bị bắn chết ở Thành Hồ năm 1978. Đây là thời gian Tàu cộng và Việt cộng đang hục hặc hăm he đánh nhau. Việt cộng đổ là do bàn tay lông lá của bọn phản động Bắc Kinh đã hạ sát đào Thanh Nga chỉ vì Thanh Nga đóng vai “Thái Hậu Dương Vân Nga” trong vở tuồng cùng tên. Đại khái sự tích vở tuồng như sau: Cuối đời nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt nhỏ bé ở miền Nam sau ít năm độc lập lại bị người Hán tính chuyện xâm lăng. Quốc gia lâm nguy, vua ít tuổi không thể lãnh đạo quân dân chống cường địch, may sao nước nhà có Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn là người anh dũng. Bà Thái Hậu họ Dương bèn dẹp tình riêng, lo chuyện chung, lấy hoàng bào của Vua cho Lê Tướng quân mặc. Hành động của bà Thái hậu đa tình cho nhân dân biết cơ nghiệp nhà Đinh — mở đầu bởi người hùng Cờ Lau Đinh Bộ Lĩnh — đến đây là chấm dứt. Ngôi Vua đã được đích thân Thái Hậu Mẹ Vua trao cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn để Tướng quân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước. Nghe nói Dương Thái Hậu còn đi xa một bước nữa trên đường thưởng công cho Thập đạo Tướng quân bằng cách trở thành vợ của Tướng quân.

Đấy là ý chính vở tuồng “Thái Hậu Dương Vân Nga.” Ngoài việc kêu gọi đánh quân nhà Hán – năm 1978 là quân Trung cộng cờ đỏ búa liềm năm sao vàng – vở tuồng còn có ý đồ khuyên đàn bà con gái miền Nam bại trận nên quên chồng cũ – những anh bại trận này đã chết và còn sống cũng như đã chết – để trao thân gửi phận cho những anh chồng mới trẻ, khỏe hơn, những anh chiến thắng v.v….

Và chỉ có thế thôi – mà theo Việt cộng – “bọn phản động Bắc Kinh đã giết nữ nghệ sĩ Thanh Nga…” Năm 1962, đào Thanh Nga đóng vai chính trong bộ phim tình cảm Hai Chuyến Xe Bông của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn hiện sống ở San José, Cali. Hai chuyến xe bông? Phải chăng đây là cái tên tiền định? Cô đào tài sắc có ông chồng chết theo. Đám tang hai người cùng cử hành một ngày, một giờ. Dù là vợ chồng cũng không tiện hai quan tài đi cùng một chuyến xe bông ra nghĩa địa. Khi cô đào bị bắn chết thê thảm anh Con trai bà Cả Đọi đang nằm phơi rốn cho muỗi đốt trong cái gọi là Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, anh chắc đám tang cô ít nhất phải có Hai Chiếc Xe Bông chứ không phải một.

Vòng vo tam quốc. Xin lỗi đã đưa quý vị đi theo cô đào Thanh Nga Cải Lương chi bảo tài sắc nổi nhất, đắt giá nhất một thời … đến nghĩa trang, bỏ quên nhà văn Mai Thảo Bảng Đường nằm cu ky hơi lâu trong căn phòng của ông ở đường Phan Đình Phùng. Căn nhà đẹp này nguyên là nhà của một ông anh của ông. Ông anh ù té chạy được trước 30 tháng 4. Một ông anh khác của ông về ở nhà này, dành cho ông một phòng. Có đêm theo ông đi chơi quá khuya — nhà tôi ở mút chỉ cà tha tận đầu đường Lê Văn Duyệt, bị đổi tên là đường Cách Mạng Tháng Tám, gần Ngã Tư Bẩy Hiền — tôi theo ông về ngáo với ông trong phòng này. Tôi thấy trong ngăn kéo bàn ngủ bên giường của ông có mấy bài thơ mới làm của Thi bá Vũ Hoàng Chương. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Thi bá và bà vợ bị đuổi ra khỏi cái vi la sang trọng trong khu Lăng Cha Cả – khi Thi bá là Thi bá, người ta hân hoan được mời ông về nhà ở với người ta trong vi la này. Khi cộng sản nói cối dép râu vào Sàigòn. Thi bá không những chỉ hết là Thi bá mà còn bị coi như một thứ tội nhân văn học, người ta đuổi ông bà đi không chút xót thương.

Thi bá cùng bà vợ về sống trong một khu lao động bên Khánh Hội, Thi bá vẫn mần thơ. Ông làm nhiều bài thơ ngắn, bốn câu, sáu câu, viết ngay vào mảnh giấy trao cho người đến thăm ông. Lý do Việt cộng bắt ông là: “sáng tác và phổ biến thi văn phản cách mạng”.

Trong tác phẩm Quần đảo Ngục tù – The Gulag Archipelago – Tác giả Alexander Solzhenytsin viết đại khái: Sống trong kìm kẹp của bọn mật vụ cộng sản, người dân khiếp sợ đến nỗi không những không ai không dám làm một hành động phản kháng mà còn không ai dám bỏ trốn. Như con chim trước con rắn, người ta chỉ mong bọn công an đến gõ cửa nhà người khác. Nhớ lại thời người dân ở Leningrad bị khủng bố, tôi nghĩ nếu chúng tôi, những người dân hiền lành, chỉ chống đối bọn công an đêm đêm đi bắt người bằng cách lén ra phá hoại xe ô tô của chúng thôi, đã có biết bao nhiêu người không bị bắt, thoát khỏi việc bị chết trong ngục tù vì bọn công an Leningrad không có xe để đi bắt họ. Có thể nói tất cả mọi người dù biết mình sắp bị bắt vẫn cứ chịu chết ở nhà chờ chúng đến bắt. Người ta nghĩ rằng với sự kiểm soát chặt chẽ của công an mình không thể nào trốn thoát được. Bỏ trốn chỉ thêm tội nặng. Nhưng tôi biết một sinh viên khi thấy bọn công an đến bắt anh, tung cửa sổ nhẩy ra vườn sau chạy thoát. Và anh thoát luôn. Mười mấy năm sau trở về thành phố tôi lại gặp anh….

Tình trạng người dân khiếp sợ bọn công an ở Nga dù sao cũng vẫn không nặng bằng tình trạng xẩy ra ở Sàigòn và những tỉnh miền Nam Việt Nam, nơi từng là một quốc gia riêng với đủ thứ lệ bộ, lễ nghi của một quốc gia độc lập, nơi người dân trong mấy chục năm trời từng đổ máu, đổ nước mắt chống cộng sản. Trong cái gọi là Khóa bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ Sàigòn, Hai Khuynh một cán bộ biên tập tạp chí Đại Đoàn Kết, đến dự với tư cách hướng dẫn viên , nói:

– Nếu chúng tôi còn yếu như năm 1954 thì lần này có thể trong số các anh có vài anh bị chúng tôi cho đi mò tôm rồi đấy. Chuyện trả thù tắm máu không xảy ra vì bây giờ chúng tôi mạnh rồi, chúng tôi có Đảng lãnh đạo với chính sách đúng đắn…

Ý Hai Khuynh muốn nói là Việt cộng khi vào Sàigòn đã tha, đã không đè cổ năm bảy văn nghệ sĩ VNCH ra cắt tiết lấy máu tươi cúng Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng ngày Chủ tịch dzô dinh Độc Lập. “Mò tôm” là hai tiếng mới tinh, mới có từ những năm 1946, 1947 trong ngôn ngữ Việt Nam bốn ngàn bốn mươi năm văn hiến diễn tả việc giết người của Việt cộng. Đêm đến , người chống đối hay không chống đối nhưng bị Việt cộng cho là nguy hiểm bị chúng trói tay, bịt mắt dẫn ra bờ sông, bãi cát vắng tanh — Tội nhân được đưa ra bờ sông không phải để đứng ngóng đò như trong thơ Tê Tê Ca Hát mà là để — bị bắn vào đầu, bị đâm, bị cắt cổ rồi bị đạp một đạp cho nhào xuống sông. Từ đó, nạn nhân sẽ vĩnh viễn làm bạn với cá tôm. Người dân miền Bắc gọi việc đó là “cho đi mò tôm”. Hai Khuynh là dân miền Nam kháng chiến tập kết ra Bắc nên sài tiếng “mò tôm” khá nhuyễn.

Tôi nghĩ ta không nên vu cho Việt cộng nhiều tội ác hơn là những tội ác họ đã làm với đồng bào của họ. Việt cộng, nón cối, dép râu, AKa, tóc bím, răng cải mả, mông đít to như cái thúng, ngơ ngáo kéo nhau vào Sàigòn như đàn bò vào thành phố ba triệu dân mà chỉ có ba anh – Xin lỗi – Tính lại chỉ có bốn anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Vũ Hạnh và Thái Bạch là bốn người quen sơ sơ. Ký giả Thái Bạch, thường được anh em gọi là Thái Bịch, mặt mũi khó đăm đăm, những ngày trước 30 Tháng Tư năm 1975 ngồi xào nấu tin lô can, tin xe cán chó, tin người đánh nhau được gọi là tin “Từ thành đến tỉnh” trong tòa soạn nhật báo Xây Dựng của Linh mục Thiên Hổ Nguyễn Quang Lãm ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về mục Cờ Tây.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 19)

Công tử Hà Đông nhấn nút linh tử xem lại vài cảnh bỏ nước chạy lấy người thê thảm hai mươi mốt mùa cô hồn tháng Bảy năm xưa. Phải nói là ngày ấy, tháng ấy, năm ấy Công tử gà què kẹt giỏ chạy không kịp chứ không phải là không muốn chạy. Từ trưa ngày 29 tháng Tư trực thăng Mẽo bay vần vũ trên trời Sàigòn, tiếng máy bay quần thảo suốt đêm. Tảng sáng Ba Mươi, trực thăng Mẽo vắng bóng trên thành phố đầu hàng. 11 giờ trưa “Toỏng Thoóng” Dương Văn Minh đọc lệnh buông súng trên ra-dzô, những người lính Việt Nam Cộng Hòa bại trận, buông súng, vừa đi vừa khóc trên hè phố. Đường phố Sàigòn náo loạn, người ta chạy lên, chạy xuống như kiến vỡ tổ. Bốn giờ chiều có anh nào đó tên là Tòng — Nguyễn hay Lê Văn Tòng — cùng vài anh nữa hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng Việt cộng trên đài phát thanh.

Năm, sáu, bẩy, tám, chín, mười ngày sau một số ký giả nhanh chân chạy đến “trình diện” ở Câu Lạc Bộ Báo Chí đường Lê Lợi. Ở đây có một anh cán bộ nào đó tên là Kỳ Nhân cấp cho đám ký giả Sàigòn nhanh chân chạy đến với chủ mới những giấy chứng nhận “có đến trình diện” ký tên Kỳ Nhân. Ít ngày sau, anh Kỳ Nhân này mất tích. Nhiều ký giả nói với nhau: “Không biết thằng Kỳ Nhân là thằng nào. Có lẽ tên nó là Kỳ Nhông thì đúng hơn…”

Bọn Văn Nghệ Giải Phóng Miền Nam chiếm tòa Đại sứ Đại Hàn ở đường Nguyễn Du – nghe nói nhà này nguyên là nhà của ông Nguyễn Hữu Hào, ông Quốc cữu thời vua Bảo Đại – văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bảo nhau đến đó “trình diện cách mạng”. Thực ra Việt cộng nó chỉ ra lệnh và kêu gọi các sĩ quan, công chức và đặc biệt là quý ông phú lít, bác sĩ, giáo viên, nhân viên bệnh viện v.v… đi trình diện thôi. Mới vào được Sàigòn Việt cộng đang có quá nhiều việc rối tinh, rối mù. Họ không ngờ họ chiếm được Sàigòn đẹp quá Sàigòn ơi dễ và nhanh ngon lành đến thế, hai là họ chẳng thèm để ý, để tứ, để mắt, để mũi gì đến đám văn nghệ sĩ Sàigòn nên họ hổng có kêu gọi mấy anh đi “trình diện, trình mạo” chi ráo trọi. Mấy ảnh sợ và mấy ảnh tưởng bở, mấy anh nghĩ “đi trình diện là tốt”, nên mấy ảnh lơ láo đến Tòa Đại sứ Đại Hàn nay đã đổi chủ. Công tử Hà Đông cũng đến đấy.

Đến đấy mấy ảnh gặp ký giả Thái Bịch. Bộ mặt Thái Bịch những ngày Việt Nam Cộng Hòa còn hùng mạnh trông đã khó thương rồi, nay cờ đỏ sao vàng đầy thành phố bộ mặt ấy trông lại càng ghê rợn. Ký giả nhà ta lúc thì mặt lạnh như tiền, lúc thì hòa nhã với cái vẻ cố ý để cho những kẻ đến gặp anh biết anh muốn nói với họ: “Bi giờ ngươi đã biết Thái Bịch này chưa?”

Để chứng tỏ mình không phải là thường dân, mình là chiến sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mấy anh cách mạng Ba mươi chạy cờ, chạy hiệu, chạy bàn thường đeo cái băng đỏ ở cánh tay. Đặc biệt Ký giả Thái Bịch đeo sề sệ một khẩu Côn Đui bên hông.

Ký giả Thái Bịch nhờ ơn Bác, Đảng, được hạnh phúc đeo Côn Đui– hay Côn Bạt, súng Mỹ –liên tục dễ đến hơn cả tháng. Ít lâu sau, Việt cộng tổ chức lại, đem cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng về tòa nhà Tình báo Việt Nam Cộng Hòa đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Bộ mặt hãm tài của ký giả Thái Bịch không còn xuất hiện nữa.

Trở lại với Sàigòn ngày tan hàng. Nhiều anh em tù cải tạo gọi là Ngày Đứt Phim. Lấy ý như là mình đang ngồi trong rạp Rex xem đào E-Li-Za-Bét Tê-Lo mần tình với kép Rốc-Hất-sân. Đang cụp lạc bỗng màn ảnh tối om rồi đèn bật sáng. Những cặp tình nhân ngồi nghiêm chỉnh lại, tay chân, miệng lưỡi không còn dính nhau, những trinh nữ sửa lại y phục. Đèn sáng trong một lúc. Nhân tiện kháng giả đi đé. Đứt phim. Khi phim nối lại, cuộc sống sẽ trở lại như trước.

Saigon ngày tan hàng. Nhìn lên trời thấy những chiếc trực thăng bay ra biển Công tử Hà Đông cảm khái lẩy Kiều:

Ào ào gió dục mây vần
Trực thăng trong cõi hồng trần như bay…

Mai Thảo là văn nghệ sĩ Sàigòn duy nhất công an Việt cộng muốn bắt mà không bắt được. Đúng là con người có số. Số ông Mai Thảo, số ông Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều — những ông ba chân bốn cẳng vắt giò lên cổ chạy thoát được trước Ngày Ba Mươi Tháng Tư không nói làm chi — hai ông Mai Thảo, Lê Trọng Nguyễn sống ở Thành Hồ cả mấy năm mà vẫn không bị Việt Cộng bắt — Số hai ông là số không ở tù nên hai ông không bị ở tù. Giản dị và trong sáng, dễ hiểu như vậy thôi. Hai ông chẳng giỏi giang gì cả.

Công an Việt cộng, nhất là anh Huỳnh Bá Thành họa sĩ Ớt nhật báo Đồng Nai của Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông, rất lấy làm cay cú vì không bắt được Mai Thảo. Chúng lại càng ức hơn khi chúng biết Mai Thảo vẫn sống giữa lòng Thành Hồ, vẫn gặp anh em. Cuối năm 1977 sau khi vác mặt mo đi dự cái khóa Bồi dưỡng chính chị, chính em ruồi bâu kiến đậu Công tử Hà Đông được nhà văn lớn Bảng Đường cho người đến nhà đưa thư.

Thư nhà văn lớn viết đại ý: “Tưởng mày cũng bị bắt nên tao không liên lạc. Người cầm thư này là người thân của tao. Đưa nó mang về cho tao mấy quyển truyện trinh thám Pháp. Tao suốt ngày nằm đọc sách. Tao là kẻ thù của mặt trời…”

Công tử học hành dốt nát, tiếng Tây, tiếng Mẽo tiếng nào cũng ăn đong nhưng tiểu thuyết tiếng Tây, tiếng Mẽo lại có khá nhiều. Toàn là loại sách bìa mềm rẻ tiền. Đọc thư nhà văn lớn, Công tử bèn xếp, không phải mười quyển mà là hai mươi quyển liền một khi, đưa anh mang thư đem về cho nhà văn đọc. Đồng thời một thư cũng được gửi Công tử gửi cho nhà văn lớn: “Hôm nào mày đến nhà tao chơi…”

Người giao liên của Mai Thảo là anh cháu con bà chị của ổng. Anh và gia đình hiện ở San José, Cali. Lần sau trở lại, anh cho biết Mai Thảo chỉ ra khỏi nhà lúc sáng sớm và trở về nhà lúc tối mịt, anh sẽ đưa ông cậu anh đến nhà tôi sớm, để ông ở nhà tôi, tối anh đến đón về…

Một sáng Mai Thảo đến nhà tôi. Ông đội mũ phớt, để hàng ria mép. Vợ tôi nấu cơm. Tôi đi mời bà dì tôi ở gần nhà sang chơi. Bà dì tôi, vợ tôi, cậu, cháu Mai Thảo là bốn tay đánh chắn cừ khôi. Tôi chắn cạ A B C nhưng phải ngồi dzô cho đủ năm tay. Tôi sinh trưởng trong một gia đình tổ tôm, tài bàn, chắn cạ, bất, đố mười gia truyền. Những tờ giấy bạc lương thiện do sức lao động đầu tiên tôi kiếm được trong đời tôi là tiền chia bài. Những năm 40 với việc chia bài mỗi canh chắn khoảng ba , bốn tiếng đồng hồ tôi kiếm được hai ba đồng tiền công chia bài. Tôi chi số tiền này vào việc đớp bò khô thoải mái. Năm ấy thịt bò khô Hà Đông – Sàigòn là gỏi đu đủ – một đĩa là một hào. Một đồng bạc Đông Dương đớp được những mười đĩa. Ở số tuổi một bó, một bó hai ba que tôi đớp liền tù tì bẩy tám dĩa thịt bò khô giấm chua trinh nữ són đé mà vẫn tỉnh queo không xót ruột, sót gan gì cả.

Vậy mà khi lớn lên, tôi lại không ưa cờ bịch một ly Cửu Sừng, Ông Cụ nào cả. Về bộ môn cờ bịch có thể nói tôi biết đủ thứ. Nhưng vì tôi không thích nên dù biết bí kíp mà không tập luyện nên võ công của tôi không cao. Chắn cạ, mạt chược, cờ tướng tôi chơi thấp hơn vịt… Vì thiếu chân nên tôi phải ngồi vào bàn chắn cho Mai Thảo tiêu thì giờ trong một ngày quanh quẩn ở nhà tôi từ sáng đến tối.

Trước sau Mai Thảo đến nhà tôi chừng ba lần. Thế rồi tình cờ khi gặp anh em ký giả ở đâu đó nghe họ nói:

– Mai Thảo bị bắt rồi

Tôi hỏi:

– Bị bắt hồi nào? Cách đây bao lâu rồi?

Với vẻ thản nhiên đầy quan trọng tôi nói:

– Bậy. Mới tuần trước Mai Thảo đến nhà tôi.

“Tin Mai Thảo đến nhà Hoàng Hải Thủy…” dần dần được chuyền đến tai bọn công an muốn bắt Mai Thảo. Tôi tuy ngu nhưng không đến nỗi không biết là tin ấy sẽ được truyền đến tai bọn công an Việt cộng, tôi chỉ ngu si – vì lúc đó tôi chưa bị bắt – khi nghĩ tôi không có tội gì khi tôi biết Mai Thảo bị lùng bắt mà tôi không báo cáo cho công an đến bắt Mai Thảo, là công dân tốt, theo nghĩa tốt của Việt cộng – tôi phải báo cáo với công an Việt cộng để họ giăng bẫy bắt Mai Thảo. Nếu tôi vì tính chất phản động không chịu làm việc ấy thì vợ tôi phải sáng mắt, sáng lòng đi khai báo mà không cho tôi biết.

Vì vậy, khi tôi bị bắt lần thứ nhất – lần bị bắt này của tôi không được hai anh Nam Thi – Minh Kiên nhắc đến, dù chỉ nhắc sơ nửa dòng trong quyển Những Tên Biệt Kích Cầm Bút – người phụ trách thẩm vấn tôi là Huỳnh Bá Thành. Lần thứ nhất gặp tôi trong phòng thẩm vấn của Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Huỳnh Bá Thành tự giới thiệu:

– Tôi là Huỳnh Bá Thành, họa sĩ Ớt báo Đồng Nai. Anh gặp những anh chị bị bắt và đã được thả chắc cũng có nghe nói đến tên tôi.

Khi tôi vào Số 4 Phan Đăng Lưu một số văn nghệ sĩ bị bắt tháng Ba, tháng Tư năm 1976 đã được thả về: Hồng Dương, Minh Đăng Khánh, Hoàng Vĩnh Lộc, Sao Biển, Hoàng Anh Tuấn, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Nhã Ca, Xuyên Sơn, Minh Vồ, Hồ Nam, Lê Xuyên, Trần Việt Sơn v.v… Tôi có nghe anh em kể vài mẩu chuyện trong tù nhưng thực sự tôi chưa một lần nghe nói đến tên anh Huỳnh Bá Thành.

Trước mắt tôi, Huỳnh Bá Thành gầy, đen, tóc chải sang bên trái cho tôi biết anh thuận tay trái. Anh cho tôi biết bí danh anh là Ba Trung. Anh cũng tự giới thiệu anh là tác giả quyển Vụ án Hồ Con Rùa.

Tôi không nói cho anh biết là tôi chưa nghe ai nói đến tên anh lần nào, tôi không biết họa sĩ Ớt và tôi cũng chưa từng để mắt đọc nửa trang truyện Vụ Án Hồ Con Rùa.

Tôi bị bắt chiều thứ Bảy – công an đến nhà tôi lúc 11 giờ trưa, khám xét, tìm tang vật mãi đến khoảng 5 giờ chiều tôi mới vào đến Biệt giam 15 khu B, Số 4 Phan Đăng Lưu – 10 giờ sáng Chủ nhật hôm sau Huỳnh Bá Thành đã gọi tôi ra phòng thẩm vấn.

Mỗi lần Ba Trung thẩm vấn tôi rất lâu. Ngoài phần hỏi đáp còn có phần nói chuyện linh tinh, lang tang về văn nghệ, văn gừng, chính em, chính chị. Ba Trung thường gọi tôi ra thẩm vấn vào buổi chiều, ngồi mãi đến chín, mười giờ tối mới thả tôi về biệt giam. Tôi không lấy gì làm phiền nhiễu vì những lần hỏi cung dài lòng thòng này. Mới bị bắt nằm xà lim một mình buồn thấy mồ đi. Được ra ngoài ngồi thoải mái, được có người nói chuyện qua lại – dù người đó là Vixi – cũng đỡ buồn hơn là cứ nằm đến mỏi nhừ cả người trên nền xi măng xà lim. Tôi phải nói rằng Huỳnh Bá Thành đối xử với tôi rất nhã nhặn, lịch sự. Anh ta không nói nặng tôi nửa câu, không tỏ ra khinh bỉ hay vô lễ với tôi, cũng không đe dọa tôi nửa lời. Anh có thể đe dọa tôi, nhưng anh đã không làm. Anh cũng không nói lời gì để tôi thêm buồn , thêm sợ. Anh có đọc tập thơ của tôi — Sau ngày oan nghiệt, tôi có làm một số bài thơ vẩn vương, chép vào một tập để ngay trên bàn. Bọn công an xét nhà vồ được tập thơ này của tôi. Giờ này tập thơ vẫn nằm yên trong kho Lưu trữ tang vật của Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh, trong tập có bài thơ tả cảnh Chợ Trời Saigòn sau ngày ta mất nước:

Chợ Trời

Trời chiều đi dạo Chợ Trời
Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui
Tìm vui chỉ thấy ngậm ngùi
Vỉa hè này những khóc cười bầy ra
Lạc loài áo gấm, quần hoa
Này trong khuê các, sao mà đến đây?
Chợ bầy những đọa cùng đầy
Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa
Bán đồ toàn những người ta
Mua đồ thì rặt những ma cùng Mường
Chợ Trời hay Chợ Đoạn Trường
Đầu âm phủ, cuối thiên đường là đây!

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 20)

Việt cộng vào Sàigòn, theo đúng thông lệ Cộng đi tới đâu ruồi bâu đến đấy, thành phố Sàigòn thất thủ một sớm, một chiều trở thành cái Chợ Trời khổng lồ. Người Sè Goòng mang ra vỉa hè bán đủ thứ linh tinh. Hai chợ Trời đông đảo nhất Sàigòn là Chợ Cũ và Chợ Lăng Cha Cả. Mộng ước cao đẹp nhất của những anh nông dân Bắc Việt đi lính cụ Hồ vào được Sàigòn là được làm chủ cái đồng hồ “không người lái”. Người bán đồ toàn là dân Sàigòn, người mua đồ toàn là lính Bắc Việt cộng sản. Các em Lính Cái Việt cộng mông to hơn cái thúng đi chợ trời tìm mua “Áo Mông” – Montagut – đồ các em mua phải là đồ có chữ U Ét – US- hay U Ét A – USA.

Ba Trung có đọc bài thơ Chợ Trời, anh nói:

– Anh làm thơ gọi chúng tôi là Mán, là Mường. Nếu các chú đi bắt anh mỗi chú chỉ đánh anh một cái thôi giờ này anh cũng ngồi không vững.

Cay cú nặng vì vụ vồ hụt Mai Thảo, Ba Trung nói:

– Anh thấy đấy… Chúng tôi định bắt một trăm anh là đúng một trăm anh bị bắt. Chúng tôi chỉ có bắt hụt mỗi một mình Mai Thảo.

Thấy anh đối xử với tôi tử tế, tôi nói:

– Các anh bắt vậy là hay quá rồi. Chỉ vì cái sơ suất này mà các anh không bắt được Mai Thảo: chúng tôi có vợ con, khi nghe tin anh em chúng tôi bị bắt chúng tôi quyến luyến vợ con nên chúng tôi cứ ở nhà chờ không chịu bỏ đi. Mai Thảo không có vợ con, sau giải phóng nó lại quen ở nhà này ít lâu, ở nhà khác năm bữa nửa tháng. Nghe nói bị bắt là nó lững thững hai tay không nó đi. Lẽ ra các anh phải bắt Mai Thảo trước nhất, sau nó mới đi bắt những người khác.

Ba Trung hỏi:

– Anh có nhiều lần gặp Mai Thảo phải không?

Có cái tật không thích nói dối — mặc dầu đôi khi cũng nói dối như máy — và không nói dối được, tôi trả lời:

– Có. Mai Thảo đến nhà tôi vài lần.

Ba Trung bất thần hỏi mánh:

– Cũng có khi anh đến rủ Mai Thảo đi chơi chứ?

Phải nói thật là tôi chẳng lần nào đến chỗ Mai Thảo trốn tránh gọi anh đi chơi cả. Nên tôi trả lời ngay boong.

– Không.

Và tôi giải thích “tại sao không”:

– Mai Thảo không nói cho tôi biết chỗ hắn ở là vì việc đó không cần thiết, tôi không cần biết chỗ hắn ở làm chi. Tôi không hỏi chỗ Mai Thảo ở vì tôi sợ nếu tôi bị bắt, các anh sẽ hỏi tôi Mai Thảo ở đâu. Tôi không khai thì sợ các anh hành hạ tôi. Tôi khai thì tôi ân hận vì tôi mà Mai Thảo bị bắt. Vì vậy, tôi không hỏi. Nhưng bây giờ, khi đã bị bắt vào đây rồi, nếu tôi biết chỗ Mai Thảo ở tôi khai với các anh ngay. Nếu tôi còn ở ngoài mà tôi làm cho hắn bị bắt, tôi mới ân hận. Đã bị bắt rồi, tôi chẳng có gì mà để sợ. Mai Thảo có bị bắt thì nó cũng chỉ khổ như tôi thôi. Tôi chẳng áy náy gì về việc khai ra chỗ nó ở để nó bị bắt vì tôi biết trước sau gì nó cũng bị bắt thôi. Làm sao nó trốn mãi được…

Ba Trung không nói gì cả. Chèn đét ơi… tôi nói có lý quá trời đi, còn bắt bẻ tôi vào đâu được. Bị Việt cộng bắt mình khai báo với nó phải có lý may ra mới được nó nể nang phần nào. Có lần, tôi nhớ vào buổi tối đã khuya, khi đã sửa soạn ra về, cho tôi vào xà lim ăn cơm tù nguội cứng ngắc, Ba Trung nói:

– Làm việc với anh, tôi cũng học được nhiều điều hay hay…

Ba Trung nuôi mộng qua tôi, qua vợ tôi, bắt được Mai Thảo. Có lần hắn bảo tôi:

– Tôi muốn anh viết một thư cho Hoài Bắc. Ý thư là anh báo cho Hoài Bắc biết người ta, tức là chúng tôi, đã biết chỗ ở của Mai Thảo, Hoài Bắc phải đến cho Mai Thảo biết để Mai Thảo đi nơi khác ngay…

Tôi biết ngay mánh mung của Ba Trung. Trong tù thường có người bị bắt khi được thả lén mang thư của người tù ra ngoài, đem đến cho thân nhân người tù. Ba Trung muốn tôi viết thư cho Hoài Bắc, hắn sẽ cho một chú công an nào đó giả làm tù ở chung phòng với tôi trong Số 4 Phan Đăng Lưu mới được thả, đem thư HHT đến cho Hoài Bắc. Được thư Hoài Bắc sẽ nhẩy lên ngựa sắt lọc cọc đến chỗ Mai Thảo hay cho người nhà đi báo tin cho Mai Thảo biết là công an đã biết chỗ ở của Mai Thảo, nên đi chỗ khác ngay.. Anh em Ba Trung chờ sẵn ngoài đường sẽ đi theo, ập vào nơi Mai Thảo ở, còng tay Mai Thảo ngon lành.

Tháng 10 năm 1977, khi tôi ngơ ngáo tay bị còng, theo những anh Công An Nhăn Dăn thành Hồ, đặt những bước chân đầu tiên đi vào con đường tù đầy nạn nhân Cộng sản, đặt những bước chân đầu tiên là lời nói văn huê để diễn tả việc loạng quạng đi vào trại giam số 4 Phan Đăng Lưu, các ông Mai Thảo, Hoài Bắc vẫn còn vất vưởng ở Thành Hồ. Nói rõ hơn là ngày tôi bị bắt các ông chưa vượt biên đi thoát. Sở dĩ công an Thành Hồ không tóm được Mai Thảo là vì Thành Hồ có trò vượt biên. Nhờ có vượt biên, Mai Thảo mới thoát được tù đầy cộng sản. Nếu không có vượt biên làm sao ông có thể lẩn tránh mãi. Bị Việt cộng vồ trượt, lùng bắt từ tháng 3 năm 1976 cho đến đầu năm 1978 ông mới đi thoát. Thành tích sống ẩn mình chờ đi chui của ông như dzậy là khoảng hai niên. Kỷ lục Guiness Mít.

Khi Ba Trung Huỳnh Bá Thành đưa cho tôi mảnh giấy bao thuốc lá, cây bút, bảo tôi viết thư cho Hoài Bắc theo ý hắn, tôi ngồi lặng đi nửa phút. Tôi thầm đọc Ba Kinh Kính Mừng xin Đức Mẹ Maria làm cho lá thư tôi viết không gây tác hại gì cho các bạn tôi. Tôi cẩn thận khẩn cầu cho chắc ăn. Trong lòng tôi không tin Hoài Bắc khi nhận được thư tôi — nếu Ba Trung cho công an giả làm tù được ra đến đưa thư thực sự — lại lóc cóc đạp xe đến chỗ Mai Thảo ở để phi báo ngay. Tôi chắc vậy, vì tôi biết Hoài Bắc cũng không biết rõ chỗ Mai Thảo ẩn náu như tôi. Dù có nhận thư báo, anh cũng chỉ chờ anh cháu liên lạc viên của ông bạn lại mới nói cho biết. Nếu tôi là Hoài Bắc tôi cũng làm như vậy.

Hai mươi mùa lá rụng đã qua kể từ ngày ấy – không nhớ là sáng, hay chiều, hay tối, trong phòng thẩm vấn số 4 Phan Đăng Lưu, cửa ngõ tù đầy của những công dân thành phố Hồ Chí Minh quang vinh, tôi cầm bút viết. Đại khái lời thư tôi còn nhớ:

Hoài Bắc,

Người ta đã biết chỗ ở của Mai Thảo. Mày đi cho nó biết ngay để nó đi chỗ khác. Ở lại đấy là bị vồ đấy.

H.H.T.

Tôi ký tờ thư ngắn. Ba Trung bảo tôi:

– Anh vẽ bông hoa dưới chữ ký anh.

Y xem tập thơ của tôi, thấy tôi thường vẽ bông hoa trên đầu bài, trên chữ ký. Tôi có con dấu bằng đồng hình bông hoa và chữ ký tôi khá đẹp. Khi đến bắt tôi, bọn công an lục soát lấy đi tất cả những con dấu hoa hòe hoa sói của tôi. Tôi vẫn nghĩ bông hoa là biểu hiệu tiền định của đời tôi. Hoa đẹp, hoa thơm, nhưng người ta không ăn được hoa. Đời tôi an nhàn, có chút tiếng tăm còm, có vài ba nữ độc giả ái mộ, vợ không đẹp lắm, con không khôn lắm nhưng cũng không quá ngu. Đời tôi đúng như bông hoa. Không có tiền. Phải chi thời trẻ tôi lấy dấu hiệu là trái sầu riêng hay trái mít. Tiếc thật. Lấy dấu hiệu là trái đu đủ cũng có ăn. Hoa thì hèn chi hổng nghèo phai nhạt nụ tầm xuân.

Dễ thôi. Tôi là người tù dễ bảo có hạng. Tôi vẽ bông hoa bên chữ ký theo lời của Ba Trung. Tôi tin dù thư có đến tay Hoài Bắc anh sẽ không tin đó là thư tôi. Vì tôi “mày tao” mí ông Mai Thảo, tôi không “mày tao” mí ông Hoài Bắc. Ông Hoài Bắc không mày tao với ai cả thì đúng hơn. Thư tôi “mày tao” vớí ông chắc vừa đọc ông đã thấy có cái gì khác lạ. Tôi có thể “toa, moa” nhưng nhất định không thể “mày, tao” vớí ông. Có vài lần tôi nghe ông Thanh Nam mày tao vớí ông Hoài Bắc, nhưng ông Hoài Bắc vẫn cứ “tôi, anh” với ông Thanh Nam.

Ba Trung có thực hiện mánh mung cho đàn em giả tù được thả đem thư rởm của tôi đến cho Hoài Bắc hay không? Chuyện đó tôi không biết và không bao giờ tôi biết. Hoài Bắc đã qua đời, hình như anh mất năm 1993. Ở Thành Hồ chúng tôi biết tin Hoài Bắc nhờ nghe đài VOA. Công an Việt cộng Ba Trung Huỳnh Bá Thành cũng đã chết.

Tôi bị giam 12 tháng 2 ngày trong xà lim, Biệt giam số 15 khu B hai tháng, Biệt giam 6 khu C Một mừời tháng. Khi sang phòng tập thể cuối năm 1978 tôi được anh em tù báo tin:

– Mai Thảo, Hoài Bắc, Lê Thiệp, Nguyễn Hữu Hiệu… đi thoát hết. Sang Mỹ cả rồi…

Nghe tin tôi nhẹ người.

*****

Tuy không biết nơi ẩn náu của Mai Thảo tôi vẫn có thể chỉ cho Ba Trung bắt được anh. Số là vợ chồng tôi chỉ về ở căn nhà nhỏ của mẹ tôi vẫn bỏ không trong Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ ba tháng sau ngày nón cối, dép râu ngơ ngáo vào Sàigòn. Khoảng tháng Mười, tháng Mười Một đen hơn mõm chó năm 1975 một tối buồn, trời trở lạnh, tôi đạp xế lang thang trong những đường phố tang thương của Sàigòn thương yêu. Khoảng mười giờ khuya ở đường Phan Đình Phùng, đèn tắt tối om, tôi gặp ông Mai Thảo, Hoài Bắc trên hai con ngựa sắt. Chúng tôi vào tiệm Nghi Xuân đớp phở. Khi đang dùng dằng chưa nỡ rời tay mà cũng chưa biết nên và có thể kéo nhau vào đâu chơi, chúng tôi nghe người gọi tên:

– Hoài Bắc… Mai Thảo… Hoàng Hải Thủy…

Gọi mà gọi lớn tiếng chứ không vừa đủ nghe. Ông Đoàn Khê – một tên khác là Khê Vinh – cầu thủ bóng tròn nổi tiếng trước năm 1954 – trên lưng ngựa sắt ghé đến. Chúng tôi trao đổi vài lời trên lề đường vắng.

– Bọn đá bóng Bắc Kỳ vào chúng nó có tìm ông không?

– Có chứ. Về bóng tròn thì tôi là Hồ Chí Minh của chúng nó…

Đó là lời tuyên bố giữa đường của ông Đoàn Khê, tức Khê Vinh, cựu cầu thủ Bắc Việt. Ba ông Khê Vinh, Mai Thảo, Hoài Bắc đều đã ra người thiên cổ.

Đêm ấy trời quá khuya, tôi theo ông Mai Thảo về ngáo một giường mí ông trong căn nhà một ông anh của ông phú lỉnh được để lại. Sáng hôm sau, tôi rủ Mai Thảo về nhà tôi chơi.

– Mẹ tao đau, vợ tao lên hầu bà cụ. Có mình tao ở nhà. Trưa mình đi đớp thịt chó.

Khu Ông Tạ Bắc Kỳ Ri Cư tám mươi phần trăm là dân công giáo, nổi tiếng khắp Sàigòn về mục Cầy Tơ. Ngã Ba Ông Tạ có một điểm độc đáo không nơi nào có là Ngã Ba được gọi bằng tên ông thầy thuốc hành nghề ở đó. Ông thầy thuốc tên là Tạ vẫn còn sống, vẫn ngày ngày hành nghề, nhân dân ta đã lấy tên ông đặt cho toàn khu. Không có văn bản địa đồ chính thức nào ghi địa danh ông Tạ nhưng địa danh ấy nằm trên cửa miệng của người Sàigòn từ những năm 1950 đến chưa biết bao giờ.

Trên đường đi, chúng tôi gặp Nguyễn Đình Toàn. Toàn đã biết nhà tôi, anh bảo:

– Chúng mày về trước. Trưa tao đến.

Mai Thảo chỉ đến nhà tôi ở Cư xá Tự Do có lần ấy. Khi nhờ anh cháu đến nhà tôi mượn truyện, anh chỉ có thể chỉ đường lờ mờ.

Anh cháu của Mai Thảo nói với tôi:

– Ông cậu tôi đâu có nhớ số nhà. Ông chỉ nói là ông ở trong cư xá Tự Do trước hồ tắm Cộng Hòa. Tôi có người quen ở ngay cùng dẫy với ông, chỉ cách nhà ông có mấy nhà. Tôi hỏi là trúng phóc.

Người quen của anh cháu Mai Thảo ở ngay gần nhà tôi. Mỗi lần đến nhà tôi, anh đều ghé nhà ấy trước. Tôi có thể khai với Ba Trung về người quen anh ở cùng cư xá với tôi. Nếu tôi khai biết đâu anh cháu Mai Thảo đã chẳng bị công an VC theo rõi và biết đâu nhà văn lớn đã chẳng vì thế mà theo tôi vào Số 4 Phan Đăng Lưu, biết đâu Mai Thảo đã chẳng ở lại với quê hương, biết đâu giờ này tên ông đã chẳng nằm trên một bảng đường nào đó ở thủ đô tị nạn. Biết đâu v.v…??

Hai mươi tháng tù đầy kéo dài trong ba niên. Cuối 1979, trở về căn nhà nhỏ Alice kể cho tôi nghe:

– Ba Trung nó gọi em lên Sở. Nó dụ em chỉ chỗ cho nó bắt Mai Thảo. Nó nói bóng gió là nếu em muốn anh sớm được tha thì em phải giúp chúng nó bắt Mai Thảo. Nó gọi em lên sở từ 9 giờ sáng để em chờ tới 11 giờ nó mới ra tiếp em. Nó nói đủ thứ ba lăng nhăng đến bốn, năm giờ chiều mới cho em về. Nó nói: “… Chúng tôi sẽ xây dựng nước Việt Nam thành một vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương…”. Nó còn hỏi em đã coi phim Chiến Tranh Và Hòa Bình của Liên Sô chưa? Nó nói phim chiến tranh và hòa bình của Liên Sô mới thật vĩ đại. Phim Mỹ không đi đến đâu. Nó còn nói: “Cái gọi là quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nó đã chết rồi. Anh ấy cứ đào nó lên anh ấy thương xót nó…”. Em điên lên em nói: “Nếu mà nó đúng thì nó có chết đến một trăm năm cũng vẫn đào nó lên. Việt Nam Cộng Hòa mới mất có mấy năm nay mà…”. Nó dọa em: “Chị mới là người đáng bị chúng tôi bắt…”. Em nói: “Các anh làm ơn bắt ngay tôi đi. Tôi mừng. Bị bắt là tôi hết lo. Bây giờ tôi phải lo nuôi chồng tôi ở trong tù, lo nuôi các con tôi. Tôi không sợ các anh bắt đâu…”

Nàng cay cú nhiều vì bị Ba Trung quấy rầy. Nàng từng hẹn hò:

– Nếu có ngày đổi đời, phe ta lại nắm quyền, ai giành cái gì thì giành, em giành thằng Ba Trung. Em bắt nó về em xích cổ nó ở chân giường, em cho nó ăn uống tử tế nhưng em bắt nó suốt ngày phải nói câu: “Xây vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương…”