• Năm 25 tuổi

    hoang-hai-thuy-25-tuoi.jpg

    Hoàng Hải Thủy, năm 25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định, Sàigòn, Năm 1957.
  • Thể Loại

  • Được yêu thích …

  • Bài Cũ

Năm Năm Cứ Đến Ngày Oan Trái

Nguyen Van Thieu Đã Tháng Tư rồi! Lại Tháng Tư! Nói như là khóc, dễ chi cười? Hăm lăm năm nhục thêm từng nấc, thêm một ngày sao nhục chẳng vơi? Mới biết thời gian là nhát búa, bủa mòn còn thấy nhựa cây tuôn! Nhân danh “chủ nghĩa” người đâm chém, bầm nát nhân tình với Nước Non!

Đã Tháng Tư rồi! Ai đã yên, về nơi ở mới tận trời Tiên? Và ai đang vật cùng cơm áo, ai nhắc quê nhà cứ bảo quên? Mây trời Hà Nội giăng Thê Húc, Hồ Kiếm rùa thiêng vẫn ngóc đầu! Gươm báu Vua Lê vào lịch sử, chẳng còn chi nữa tặng đời sau!

Chó lên bàn độc treo cờ đỏ, người gục đầu đi, đời lạnh tanh! Thế đó là xong thời Kháng Chiến? Bây giờ là lúc để “nhân danh”? Cha, ông, lưu lạc nhìn nhau, lạ, thỉnh thoảng còn to tiếng chửi nhau! Con, cháu, ngước lên rồi lẩn tránh, tấm gương kim cổ chẳng ai lau!

Tháng Tư! Tôi đứng nhìn sông núi — sông núi người dưng trắng khói sương.. Sông núi của mình chan mắt lệ! Vẫn là sông núi, chẳng Quê Hương. Tôi mà ếch nhái, lòng vui lắm, đời có chỗ nằm — một góc ao, tối tối gọi vang lời Cố Quận, ngày ngày nhắm mắt tựa trăng sao.

Sáu mươi tuổi chẵn, đầu đang bạc. Chắc trái tim bầm tím máu thôi! Cải tạo, nắm tay thề “phải sống”, sắn khoai buồn nhỉ đã nuôi người! Bây giờ nhắc thưở cơm lưng chén, bạn lấy nĩa chìa miếng thịt đưa! Di chúc..Từ nay con cháu liệu..Từ nay… Tôi rót máu vào thơ.

Tháng Tư! Tôi lậy Trời không sập và Đất xin đừng động ngổn ngang. Đã chết biết bao người vượt biển, còn đây là tạm kiếp tha phương. Hỡi ơi, tôi nói mà đau ngực, tôi nói mà thương quá Việt Nam! Bạn bật cười to, tung tóe rượu, tôi ho sặc sụa rót bia tràn…

Chùa Miếu người xây ngày một kiểu, cần chi Văn Miếu đá trơ gan, nước hồ Hoàn Kiếm đang cau mặt, chồn cáo vui mừng hết ở hang. Ơi Tổ Quốc ơi thời mạt pháp, Tháng Tư ngày chỉ tới Ba Mươi, nếu mà có nhỉ Ngày Ba Mốt, hy vọng nên chăng Cuộc Đổi Đời.

Thơ “Tháng Tư 2001” của Trương Nghĩa Kỳ.

Tham Thuy HangĐã ba mươi bốn Tháng Tư đến, Tháng Tư qua, kể từ Tháng Tư năm 1975. Hôm nay Ngày Thứ Hai, 20 Tháng Tư 2009 — hôm nay, giờ này 34 năm trước thành phố Sài Gòn đang sôi như chảo dầu sôi; giờ này, ngày này 34 năm trước Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa đang anh dũng đánh những trận cuối cùng ở Long Khánh, Xuân Lộc, trên cửa ngõ vào Sài Gòn. Những ngày như lá, tháng như mây, hôm nay ai quên, ai nhớ? Nhiều người quên nhưng vẫn còn nhiều người nhớ, như người tha hương làm thơ Trương Nghĩa Kỳ, như người quân nhân Hồ Đinh, nguyên sĩ quan Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Bài viết của Hồ Đinh: “Mặt Trận Xuân Lộc Tháng 4 — 1975“. Tôi xin phép tác giả trích vài đoạn trong bài.

Trích: Văn Tiến Dũng, Đại Tướng Tổng Tư Lệnh Quân đội Bắc Việt, viết trong tác phẩm “Đại Thắng Mùa Xuân“:

“Mặt trận Xuân Lộc đẫm máu ngay từ những ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6, 7, 341 của ta đã phải tấn công vào thành phố nhiều lần, nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung Đoàn 43 địch. Các đơn vị pháo của ta phải xử dụng nhiều hơn số đạn dự trù. Số lớn tăng 54 và xe bọc thép của ta bị hạ..”

Trích đoạn “Quân Lực VNCH rút khỏi Long Khánh”:

…”Theo những kẻ thân cận làm việc trong Dinh Độc Lập thì Tổng Thống Thiệu khi được tin Phan Rang thất thủ, một số quân nhân Quân Đoàn II uất ức vì cảnh gia đình ly tán, đất nước lâm nguy nên dùng xe ủi đất và chiến xa M.113 san bằng mồ mả của dòng tộc Nguyễn văn Thiệu, Tổng Thống quá uất ức nên trước khi từ chức, sau khi chuyển được hết tài sản ra ngoại quốc, đã ra lệnh bỏ Long Khánh, mở ngỏ để Cộïng Quân tiến mau vào Sàigòn…”

…” Sau 12 ngày ác chiến đẫm máu, Cộng Sản Bắc Việt thương vong hơn 10.000 người, 37 chiến xa bị tiêu hủy tại chỗ (theo tài liệu của Harry G. Summer trong quyển Historical Atlas of VN War). Ngoại trừ Trung Đoàn 52 BB bị tổn thất 60% quân số, QLVNCH tại đây bị thiệt hại khoảng 30%, nhưng Long Khánh vẫn đứng vững. Tin thắng trận bay về Sàigòn như những gáo nước lạnh tạt vào mặt bọn trí thức sôi thịt, bọn nhà văn, nhà báo, ký giả, chính trị gia ngoại quốc cũng như VN, khiến chúng không còn cách nào bóp méo và xuyên tạc sự thật, nên chúng cũng đành cúi đầu kính phục tinh thần bất khuất của người VN, bởi vì đây là chiến thắng vĩ đại cuối cùng của QLVNCH trước khi bị rã ngũ.

…” 10 giờ sáng ngày 20-4-1975, lệnh rút khỏi Xuân Lộc được ban hành (…) Trong cuộc lui quân này Lữ Đoàn 1 Dù bị thiệt thòi và nguy hiểm nhất vì là đơn vị đoạn hậu, lại đang giao chiến với Cộng quân ở Bảo Định. Trong khi cuộc chiến đang ác liệt thì 7 giờ 30 đêm 20-4-75 có lệnh rút quân giữa lúc các thương binh và tử thi chiến sĩ Dù chưa được di tản. Đây là lần thứ hai những chiến sĩ Dù phải cắn răng bỏ lại đồng đội như họ đã cắn răng bỏ lại năm 1972 tại Hạ Lào. Đối với người còn sống đoạn đường 40 cây số xác người trong những rừng cao su đen nghịt ra tới quốc lộ 1 là con đường địa ngục phải vượt qua.

… 9 giờ tối các tiểu đoàn Dù mới tới quốc lộ 1 và ở đây một hoạt cảnh diễn ra. Đó là các con chiên người Việt, người Nùng, Thái, Mường ở những ấp Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa tập trung đông đảo hai bên đường để theo chân lính di tản. Thì ra người lính VNCH và tình quân dân thắm thiết chỉ được đồng bào miền Nam nhớ tới khi bị VC dồn vào chân tường hay chém giết dã man như hồi Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972 và những ngày mất nước 1975…”

Đây là đoạn người quân nhân Hồ Đinh kết thúc bài viết:

… Tại Sài Gòn, hàng hàng lớp lớp quan quyền, lãnh đạo chính trị, bọn nhà giầu có thế lực… tiếp nối di tản. Trong lúc đó tại Long Khánh, dân và lính chịu chung số phận, lội trên máu thịt, tắm dưới bom đạn, dành giữ từng bức tường cháy, từng đống gạch vụn. Nhưng tội nghiệp và thê thảm nhất vẫn là dân chiến nạn miền Nam, chạy giặc từ những vùng bị giặc chiếm như Đàlạt, Gio Linh, Định Quán, Kiệm Tân, hoặc xa hơn là Phan Thiết, Lagi, Hàm Tân, Tánh Linh, Võ Đắc.. Những đồng bào này cùng dân và lính Long Khánh chịu chung số phận của những con cá nằm giữa thớt và dao, bởi bom đạn vô tình từ trên trời rớt xuống, khiến cho tử thi của mười mấy ngàn người dân, lính VNCH, kể cả bộ đội Bắc Việt, trở thành đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.

Bỗng dưng thấy u uất nghẹn ngào khi vô tình đọc bài cổ thi Lũng Tây Hành của Trần Đào đời Hậu Hán:

Thệ tảo Hung Nô bất cố thân
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân!

Toàn bài nói lên sự quyết tâm của người chiến sĩ lúc ra đi, thề quét sạch quân thù, không hề tiếc đến thân mình; 5.000 chiến sĩ mặc chiến bào bằng da chim điêu đã vĩnh viễn chôn xác nơi đất Hồ. Thương thay nắêm xương tàn của người chết vì nước nằm cạnh con sông Vô Định theo thời gian đã rã mục lâu rồi, vậy mà họ vẫn là người trong mộng của các thiếu phụ chốn phòng khuê. Nhưng còn người lính miền Nam VN thì sao? Thê thảm và bi thiết lắm, bởi họ là kẻ bại trận, người sống thì vào tù, người tàn phế thì ôm hận với tháng ngày hẩm hiu, riêng kẻ chết vẫn bị dày mồ!

Hơn một phần tư thế kỷ qua rồi, tóc xanh thành tóc bạc, bạn bè thân thương một còn, chín mất, lưu lạc khắp ngàn phương. Cái mộng mơ năm nào được

Ngày mai rồi có ngày nào
Cưỡi voi theo gót ai vào Thăng Long

Thơ Vũ Tầm Hoan

đã tan biến theo mây khói, nên giờ chỉ còn biết

Nghiêng bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường..! Hồ trường
Ta biết rót về đâu ?

Thơ Nguyễn bá Trạc

Hồ Đinh . Nguyên Tiểu Đoàn 1-Trung Đoàn 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh. KBC 4424.

*****

Năm năm cứ đến ngày oan trái..
Ta thắp hương lòng để nhớ thương..
Thôi thế Em về yên Xóm Cỏ..
Cây đời đã cỗi gốc yêu đương..
Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió..
Cho đống xương tàn được nở hương..

Ơi.. các bạn cùng một lứa bên trời lận đận.. Năm năm cứ đến Tháng Tư, chúng ta lại bùi ngùi tưởng nhớ Ngày Ba Mươi Tháng Tư Đau Thương năm xưa. Tháng Tư năm 1977 ở Seattle, Kỳ Hoa Đất Trích, Thanh Nam tâm sự: “Một năm người có mười hai tháng.. Ta suốt năm dài Một Tháng Tư..!” Nếu Thanh Nam còn sống hôm nay, tôi chắc thi sĩ sẽ thấy: “Ta suốt đời ta Một Tháng Tư..” Bạn ơi.. Có thương, có nhớ, có đau, có tủi, có tiếc, có ân hận, có nhắc nhở cũng không còn được lâu nữa đâu, chúng ta một còn, chín mất, lưu lạc ngàn phương, có muốn gặïp nhau cạn một hồ trường cũng khó. Dù ta có cạn hồ trường, ta vẫn không sao khuây đau thương, nếu ta định tìm quên trong chất men cay đắng, ta càng uống càng thêm những đắng cay; hồ trường của ta đắng lắm: ta chỉ có thể nghiêng bầu mà khóc, ta không thể vỗ gươm mà hát, gươm ta đã gẫy, gươm ta ta đã nộp cho nó mất rồi..!

Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc..
Trăm năm thân thế bóng tà dương..
Vèo trông lá rụng đầy đường.
Kỳ Hoa đất trích đoạn trường thế thôi..!
Thương ơi ta đã không còn trẻ,
Từ thưở tan hàng ở cố hương..
Tháng Tư..! Ta lặng nhìn sông núi..
Sông núi người dưng trắng khói sương.
Quê ta xa mãi bên kia biển..
Chỉ thấy tơi bời mây trắng vương..
Đất đá tim ta nhiều ngấn lệ..
Em có bao giờ em khóc thương..?

Hơn ba mươi Tháng Tư đã qua kể từ ngày ta mất nước, ta không thể sống như loài ếch nhái hài lòng nằm trong góc ao đêm mưa ì ộp gọi nhau, ta thương khóc dù ta biết ta có thương khóc bao nhiêu cũng chỉ là vô ích; nhưng sẽ chẳng còn lâu nữa đâu, những Tháng Tư sẽ đến với những người Việt không biết gì về Tháng Tư; ngày Quên sẽ tới khi trên cõi đời này không còn người Việt nào đau nhói trái tim khi Tháng Tư trở lại.

Vì năm tháng sẽ qua, vì người sẽ quên, vì đời sẽ lãng, nên khi chúng ta còn sống, năm năm cứ đến Ngày Oan Trái, ta cứ thắp hương lòng để nhớ thương. Ai không nhớ mặc người ta, còn ta, ta cứ một mình rơi nước mắt vào những hồ trường tha hương, thất quốc..Bạn ơi..Giờ này, hôm nay 20 Tháng Tư, 1975…, quân ta đang chặn đánh quân Bắc Việt Cộng ở mặt trận Long Khánh, anh em ta, đồng bào ta đang chết để cho chúng ta sống…

Ơi những vị bạn già của tôi ở chín phương trời, mười phương đất hải ngoại thương ca, tôi gửi những lời Thơ này đến các vị:

HỒ TRƯỜNG 2009

Năm năm cứ đến ngày oan trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
Thôi thế Em về yên Xóm Cỏ
Cây đời đã cỗi gốc yêu đương
Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió
Cho đống xương tàn được nở hương…

Một đời ba, bốn phen dâu bể
Mười điều trông thấy chín đau thương
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Nước mất, quân tan, tù chiến bại
Sống nhờ y thực ở tha phương
Vèo trông lá rụng đầy đường
Kỳ Hoa Đất Trích đoạn trường thế thôi.
Trăm hận, ngàn đau nào sánh được
Tấm lòng lưu lạc nhớ quê hương
Tháng Tư..! Ta lặng nhìn sông núi
Sông núi người dưng trắng khói sương.
Quê ta xa mãi bên kia biển
Chỉ thấy tơi bời mây trắng vương.

Ta đau người lính vừa thua trận
Nát gió mưa nằm giữa sa trường
Vẫn nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu Thiên Đường.
Đất đá tim ta nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ Em khóc thương?

Hồ trường..
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tha hương
Vỗ gươm mà khóc
Nghiêng bầu mà gọi
Kỳ Hoa mang mang… ơi người mất nước..
Rừng Phong cùng ta cạn mấy hồ trường.
Hồ trường.. Hồ trường..
Ta biết rót về đâu?

Đông phương ngàn dậm thẳm
Mây nước một mầu sương
Tây phương trời đẹp lắm
Có người mất nước như điên, như cuồng…
Hỡi ơi… bạn tác ngoài trôi dạt
Chẳng đọc Thơ Ta cũng đoạn trường!

5 Responses

  1. BacCTHD than men!
    Trong hi`nh , co`n thieu da`o gia` Tuy’ Hoa , me. cua~ nu~ hoa`ng nhac Twist Tuy Phuong.

  2. Lại Tháng Tư! Nói như là khóc, dễ chi cười? Phải – Đọc xong bài này … khóc, dễ chi cười . Cám ơn HHT đã cho người đọc 1 cảm xúc trong ngậm ngùi cay đắng, để cùng đau buồn cho vận nước … mãi còn lênh đênh . Nguyệt xin phép tác giả mang bài viết này về cất trang nhà . Cám ơn tác giả và kính chúc tác giả luôn vui mạnh . Nguyệt

  3. Kính thưa Bác Hoàng Hải Thủy,

    Lâu lắm cháu mới thấy có bài viết “đã” như bài này. Cháu cũng xin mạn phép là các bài gần đây của Bác đọc rất khó hiểu và theo cháu là không được “hot” bởi vì trong nước gần đây có nhiều chuyện rất lôi cuốn sự chú ý của mọi người từ trong đến ngoài nước như: Bài của ông Trịnh Cung viết về Trịnh đá bát, vụ Bau-xít và các Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc thời hiện đại, vụ công nhân Tàu tràn ngập nhiều nơi ở VN….Cháu nghĩ Bác nên có các bài viết về các sự việc này nhằm cho bạn đọc gần xa thêm hiểu VN.

    Ngoài ra, cháu thấy Bác thích dùng từ “Bánh xe lãng tử”. Hầu như bài nào Bác cũng viết từ này. Cháu không rõ, dùng từ như vậy thì có hợp với hoàn cảnh Bác khi rời VN không?

    Xin Bác thứ lỗi nếu như lời cháu viết không được lễ phép lắm khi dám phê bình như vậy nhưng cháu chỉ muốn nêu nhận xét của mình.

    Chúc Bác luôn luôn khỏe mạnh,

  4. Kính Bác Hoàng Hải Thuỷ,
    Trong bài ,Bác có trích dẫn bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt
    Lũng Tây Hành ,của Trần Đào ,đó là bài thơ Đường thời cuối nhà Đường,chứ không phài là đời Hậu Hán như Bác ghi .
    Xin Bác đính chính .
    Thành thật chúc Bác luôn khỏe mạnh và bình an ,để chúng tôi được thưởng thức dài dài những bài văn độc đáo của Bác .
    kính chào
    Dân Miền Nam

  5. Thưa quí độc giả , xin phép tg HHT cho tôi post bai thơ này của tg Phan Nhiên Hạo

    Thơ gởi một kẻ chế giễu 30 tháng 4

    Mi chưa giết người
    và nên cảm ơn số phận về điều đó
    đừng cười nhạo tướng Loan
    viên đạn của ông có hai đầu
    giết lập tức VC và giết dần ông mấy mươi năm
    còn mi là tay đào ngũ

    Mi không mất cha
    và nên cảm ơn số phận về điều đó
    tuổi thơ tao như cây gai
    mọc trên bàn tay rướm máu của mẹ
    tưới bằng nước mắt

    Mi chưa phải đói
    và nên cảm ơn số phận về điều đó
    tao đã từng sống chỉ để mơ
    một chiếc bánh kem, thiên đàng không có thực
    hạnh phúc là được ngậm cục đường
    dù phải sâu răng
    tao buồn nôn khi thấy mi làm trò sắp đặt
    nghệ thuật với các loại thực phẩm

    Mi chưa từng bị còng
    và nên cảm ơn số phận về điều đó
    tao chưa từng bị còng
    nhưng những người tao kính phục đã bị trói
    vào năm 1975
    điều này khiến tao không thể ngồi im
    xem mi biểu diễn trò lắc vòng chính trị

    Mi chưa từng bị đe dọa
    không phải vì mi can đảm
    mà vì mi đã nhanh chân bốc hơi
    trước khi nồi nước sôi đến độ
    mi nên cảm ơn số phận về điều đó
    nhưng đừng chế giễu
    30 tháng 4
    thật ra mi có hiểu uất ức là gì đâu
    cuộc đời của mi chỉ là một dương vật cận thị
    may mà có kính để đeo.

    Mi chưa từng chùi cầu
    không phải vì mi sang giàu còn thiên hạ chậm lụt
    mà vì mi làm nghề đầu cơ
    trong cơn tháo dạ của lịch sử
    chuyện này thì tùy mi quyết định
    có nên cảm ơn số phận hay không.

    4.2009

Leave a comment