• Năm 25 tuổi

    hoang-hai-thuy-25-tuoi.jpg

    Hoàng Hải Thủy, năm 25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định, Sàigòn, Năm 1957.
  • Thể Loại

  • Được yêu thích …

  • Bài Cũ

Tây Gỗ, Tây Bồi

 

Dat Ma
Bồ Đề Đạt Ma *
  Tri Sieu Le Manh That
Sư Ông Trí Siêu **

 
Quy Sa Tang
Chí Minh, Chí Ngu ? ***

Một trong những “đặc tính/thú tính” thô bỉ, hèn mạt, đểu cáng của bọn Văn Nô Cộng Sản là thói quen “Nhổ rồi Liếm, Liếm rồi Nhổ.” Chúng ca tụng một người nào đó hết lời, rồi đến lúc nào đó chúng chửi người đó cũng hết lời, chửi cạn tầu, ráo máng, chúng bịa ra những chuyện tệ mạt để bôi bẩn người bị chúng chửi, chúng lôi cả bố me, vợ con người ta ra chúng chửi. Như những con chó chúng xúm lại ăng ẳng chửi một người nào đó tàn tệ để rồi có ngày chúng, như những con chó vẫy đuôi, nâng bi người đó, chúng hít hà ca tụng người đó thơm quá là thơm, thơm như múi mít. Như lời Thơ 60 năm xưa của Hữu Loan:

– Hít thượng cấp cứ thơm như múi mít.

Không chỉ “hít thượng cấp“, bọn văn nô CS sẵn sàng “hít” bất cứ ai chúng thấy có thể làm lợi cho chúng, hay khi chúng được lệnh phải “hít“. Như những tháng đầu năm 2008, chúng “hít” Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát.

Năm 1984 Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát bị bọn Công An Thành Hồ đến Chùa Già Lam, Phú Nhuận, còng tay, bắt giam về tội tham gia một tổ chức “âm mưu lật đổ Bàn Thờ Bác Hồ.” Sư Ông bị giam cùng với những người đồng tổ chức, tức đồng hội, đồng thuyền với Sư Ông ở Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu và Nhà Tù Chí Hòa 5 năm. Năm 1988 Tổ Chức Già Lam, trong có Sư Ông là một thành viên, bị đưa ra tòa. Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Sư Ông Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương bị bọn VC phang án Tử Hình. Hai vị tu sĩ bị đưa sang nằm chờ chết trong Khu Tử Hình Nhà Tù Chí Hòa, nhưng hai vị chỉ phải nằm ở đó có 45 ngày đêm. Thành viên những tổ chức Âm Mưu Lật Đổ Bàn Thờ Bác Hồ khác khi bị phang án Tử Hình đều phải nằm trong Khám Tử Hình ít nhất là 1 năm mới được đem ra xử lại, tha chết, cho xuống án tù chung thân hay cho lên bãi bắn Thủ Đức. Bọn Tòa Án Tay Sai Thành Hồ, 45 ngày sau, đưa hai tu sĩ ra tòa xử lại, chúng giảm án Tử Hình của hai vị xuống án tù khổ sai 20 niên, bỏ qua án tù chung thân. Theo Bộ Luật Hình Sự của chính bọn Bắc Cộng, án Tử Hình chỉ có thể được giảm xuống án tù Chung Thân. Bọn Bắc Cộng thường “săng phú” – tức bất kể – ngay cả cái gọi là Luật của chính chúng.

Những ngày như lá, tháng như mây. Hai vị tu sĩ Già Lam Chống Cộng được tha tội Chết nhưng phải ở tù Cộng sản đằng đẵng trong 14 niên. Bị bắt năm 1984, từ Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu sang Nhà Tù Chí Hòa, rồi từ Nhà Tù Chí Hòa phiêu bạt đến những trại tù khổ sai, hai vị trở về chùa Già Lam, Phú Nhuận, năm 1998. Thế rồi năm 2008, thời thế thay đổi, tượng Lê-nin, tượng Sít-ta-lin ra nằm ở bãi rác, bọn lãnh tụ Bắc Cộng, trong thời kỳ ngắc ngoải rẫy chết của chúng – chúng hấp hối trong tình trạng Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện gọi là là “đêm tàn Cộng sản” – chúng cần có sự cộng tác, sự đứng bên chúng của các tu sĩ Phật Giáo, mặt trơ, trán bóng, lưu manh, nham nhở không cần che dzấu, chúng tìm đến nhờ vả những Tu sĩ Phật Giáo từng bị chúng bỏ tù, bị chúng khinh miệt, bị chúng lăng mạ, bị chúng phang án Tử Hình năm xưa. Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, người năm 1988 bị bọn Cộng sản tuyên án Tử Hình, người bị chúng giam tù 14 năm, năm 2008 được bọn cầm quyền Bắc Cộng trịnh trọng mời ra cộng tác trong việc tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc tại Hà Nội. Và thế là bọn Bồi Bút Xã Hội Chủ Nghĩa tranh nhau ca tụng Sư Ông, chúng tranh nhau nâng bi Sư Ông, chúng hít Sư Ông cứ thơm như múi mít.

Mời quí vị đọc một đoạn trong một bài bọn Văn Bồi VC bốc thơm “Thiền Sư Lê Mạnh Thát“:

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động.

Bài đăng ngày 26/02/2008

Người viết Hoàng Hải Vân

Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước…

Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí Siêu (tức Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá tò mò về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức ảnh Đức Bồ Đề Đạt Ma: “Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn thua ông ấy một bộ râu”. Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông.

Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng Thư ký Ủy ban Điều phối Quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với trình độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao tăng này thật không dễ chút nào.

Ông không chỉ là thiền sư, là nhà khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ…), ông còn là một người Việt Nam “nguyên chất” với tất cả lòng tự trọng tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công trình khoa học của ông.

Không biết Ngài Cao Tăng Thiền Sư Khoa Học Gia có Sở Học Mênh Mông Vi Diệu Nhiều Bằng Tiến Sĩ đọc những lời Bồi Bút CS ca tụng ông đến cái độ tụt quần như trên đây ông có thấy ngượng tí nào không?

Tôi chắc Sư Ông dư biết là khi bốc thơm người nào quá đáng, tên bốc thơm làm cho người được nó bốc, hay bị nó bốc, trở thành lố bịch, trở thành trò cười cho người đời. Khi ấy “bốc thơm” trở thành “bốc thối.” Qua bài viết bốc trên đây, em nhỏ lên ba cũng thấy Sư Ông Cao Tăng Sở Học Vi Diệu bị tên Văn Bồi VC nó bốc thối. Không chỉ bốc thối thường mà là bốc thối thối lắm lắm!

Một trong những lời dậy căn bản của Như Lai là muốn được giải thoát khỏi Khổ Não, người tu phải Khiêm Tốn, phải coi thường thân xác ngũ uẩn của mình. Người tu theo Phật tại sao phải cạo trọc đầu, phải hy sinh mái tóc, phải cạo bỏ bộ râu? Người tu theo Phật cạo trọc đầu để làm chi? Em nhỏ lên ba cũng có thể trả lời được câu hỏi. Người tu từ bỏ mái tóc đẹp của mình để lòng không kiêu mạn. Là Tu sĩ Phật Giáo, người tu bị bắt buộc phải theo một số những điều luật, nếu không, đương sự là một ông Đạo, không phải là Tăng sĩ Phật Giáo. Ông Lê Mạnh Thát nói là ông tu theo Phật, nhưng ông để tóc, ông săng-phú những giới luật của Tăng đoàn. Người đời ngu muội tôn ông là Cao Tăng Phật Giáo là sai, phải gọi ông bằng đúng cái tên gọi là Ông Đạo.

Ông Đạo Tóc Lê Mạnh Thát!

Đại Hội Phật Giáo Quốc Tế sẽ được tổ chức ở Hà Nội. Có thể sẽ có tới vài trăm Tăng Sĩ của cả trăm quốc gia đến họp. Trong cả ngàn Sư Ông trọc đầu lòi lên một Sư Ông có mái tóc đen sì. Đúng là không giống ai. Sư Ông có Tóc đó lại là Trưởng Ban Tổ Chức Đại Hội. Chuyện đó phải gọi là chuyện Khỉ, không phải Khỉ Vừa mà là Khỉ Nắm!

Rất có thể trong Đại Hội, một vị Tăng ngoại nhân nào đó, tò mò hỏi Ông Sư Việt Chủ Tịch Ủy Ban Tổ Chức Đại Hội:

– Sao ông tu mà ông để tóc?

Ông Sư Chủ Tịch có thể trả lời:

– Tổ Sư Đạt Ma có trọc đầu đâu. Tôi còn thua ông ấy bộ râu.

Rồi cười lên khèng khẹc.

Tôi không thể tưởng tượng vị Sư ngoại nhân đó nghĩ gì về Sư Việt Nam và về người Việt Nam.

Người tu theo Phật chỉ cần lặng yên, không phản đối khi thế nhân tâng bốc mình đã là có tội, Sư nghe người nịnh mà tỏ ra khoái tỉ, im ỉm, cười ruồi, hoan hỉ để cho bọn văn bồi vuốt má, soa đít thì phi-ní lô đia, hết nước nói. Không biết Sư Ông Cao Tăng Trí Siêu Lê Mạnh Thát có nhớ tí gì về những ngày đêm ông nằm phơi rốn mốc với chúng sinh trong Phòng Giam Số 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa không? Bọn Việt Cộng giam ông trong phòng tù đó 4 năm, 4 mùa lá rụng là 1460 ngày, 1460 đêm. Chúng giam ông 10 năm tù ở Trại Khổ Sai Z 30 A Xuân Lộc, 3650 ngày, 3665 đêm. Chúng không coi ông ra cái thống chế gì cả. Nay chúng nó cần ông, chúng nó móc ông ra cho ông làm việc có lợi cho chúng nó, nếu ông lấy việc bọn Việt Cộng phải dùng ông là một vinh dự cho ông, thì tôi chán ông lắm lắm. Tôi hỡi ơi, tôi ngậm ngùi, tôi xấu hổ.

Đọc bài báo anh Văn Bồi VC nâng bi Sư Ông Cao Tăng Sở Học Mênh Mông tôi théc méc: ông đã làm những cái gì để Văn Bồi VC gọi là những “công trình khoa học!” Nó bốc ông là “Tiến sĩ“, không chỉ Tiến Sĩ Thường mà là năm, bẩy học vị Tiến sĩ. Năm 1964, 1965 người dzân Sài Gòn làm công việc Xếp Loại Giá Trị Giai Cấp: “Nhất Đĩ, Nhì Sư, Tam Cha, Tứ Tướng“, chư vị Sư Ông chiến thắng trong cuộc đấu tranh hạ bệ Nhà Ngô, Sư Ông Trí Quang trở thành nhân vật uy quyền như vị Quốc Gia Giáo Chủ, Nhà Sư Trẻ Trí Siêu được cho sang Hoa Kỳ du học. Ông học, dường như Y khoa, ở một trường Đại Học bang Wisconsin, dường như ông tốt nghiệp ở Đại Học đó chứ ông cũng chẳng có học vị gì ở đó cả. Học mấy năm, ông ở lại làm việc gì đó trong trường mấy năm, ông về nước năm 1974. Trong 4 năm Sư Ông nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa chẳng người tù nào théc méc hỏi ông học Trường Đại Học nào ở Mỹ, ông có cái học vị gì. Trong tù CS, người tù nào cũng chỉ là tù, những giá trị cá nhân ngoài nhà tù không được tính đến trong tù. Em nhỏ lên ba cũng biết một người, dù là Thần Đồng, chỉ học ba, bốn năm trong một trường đại học tỉnh lẻ ở Mỹ Quốc không thể nào có được ba, bốn bằng Tiến Sĩ. Văn Bồi VC bốc Sư Ông Trí Siêu “biết 15 ngôn ngữ” là nó thổi ông phồng to hơn Bác Hồ của chúng nó. Bác Hồ tối đại thông minh của chúng nó chỉ biết có 6 tiếng người nước ngoài, Sư Ông Già Lam biết những 15 thứ tiếng, tức Sư Ông biết gấp đôi, Sư Ông thông minh gấp bốn Bác Hồ của chúng nó, Sư Ông vĩ đại gấp tám lần Bác Hồ vĩ đại của chúng nó. Sư Ông thông minh nên tôi chắc, không cần tôi nhắc, Sư Ông dư biết rằng thằng nào nó bốc ta quá đáng, thằng nào nó nói ta có những đức tính, những tài năng mà ta không có tức là nó ngạo ta, nó chửi xỏ ta, nó chửi bố ta. Vì nó bốc ông lố bịch quá nên tôi không tự dzằn được, tôi phải viết:

– Ở đời làm chó gì có thằng người Việt nào – không chỉ thằng người Việt, không thằng người nước nào – có thể nói được 15 thứ tiếng người nước khác.

Cuộc đời, và những rắc rối tơ, những bất ngờ của cuộc đời, dàn xếp cho tôi, trong một số năm tháng đời tôi, lạc bước trầm luân, nôm na là lạc bước trần ai khoai củ, do Ma Vi Xi dẫn lối, Quỉ Việt Cộng đưa đường, loạng quạng đi vào Nhà Tù Chí Hòa. Khu ED giam tù chính trị trong Nhà Tù Chí Hòa có 16 phòng giam tập thể, riêng khu ED có thể giam được 1.000 người tù chính trị phạm, sự tình cờ cho tôi, một buổi trưa, ôm chiếu dzô Phòng Giam Số 10 Khu ED. Phòng tù này đã có Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát nằm phơi rốn trên sàn xi-măng. Lúc này, những năm 1986, 1987, Sư Ông chỉ là Sư Ông, Sư Ông chưa được bọn VC bốc thối là “Cao Tăng.” Và thế là, như cục sắt rỉ bị nam châm hút, tôi rạt đến bên Sư Ông, tôi sống gần Sư Ông Trí Siêu trong 5 năm trời ròng rã, liên tiếp. Gần không phải là gần suông mà là gần sát sàn sạt, gần đến nỗi những lúc xa nhau nhất là xa 5, 10 thước: Sư Ông ngồi trên manh chiếu của Sư Ông ở giữa phòng tù, tôi ngồi trong ô cầu tiêu ở góc phòng tù. Tôi nằm cạnh, ăn chung một mâm với Sư Ông. Nói là chung mâm thực ra mâm là một miếng nylon lớn bằng góc tư tờ nhật báo, trải trên sàn xi-măng, ăn chung mâm nhưng Sư Ông ăn cơm tù với thức ăn người nhà Sư Ông gửi vào, tôi ăn cơm tù với thức ăn vợ con tôi gửi dzô. Tôi sống cùng với Sư Ông trong Phòng10 ED Nhà Tù Chí Hòa 4 năm – từ 1985 đến 1988 – rồi nguyên một năm 1989 ở Trại Tù Khổ Sai Z 30 A Xuân Lộc.

Năm 1988, Sư Ông, và những vị trong Tổ Chức Già Lam Chống Cộng, ra tòa. Hai Sư Ông Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị phang Án Tử Hình, 45 ngày sau đem ra xử lại, giảm xuống án tù khổ sai 20 niên. Rồi các vị giã từ Thánh Thất Chí Hòa, các vị đi Trại Tù Khổ Sai. Trong số các vị có vài vị chỉ còn vài tháng nữa là hết án tù nên được ở lại Thánh Thất đợi ngày trở về mái chùa xưa. Ngày thăm nuôi, các vị sắp hết án được ra gặp mặt người nhà. Các vị được người nhà cho biết các vị Già Lam lên Trại Z 30 A, các vị trở vào phòng tù, những anh tù đói tin, đói tình, đói tự do, đói hy vọng, đói đủ thứ, trong số có tôi, rỏng tai nghe các vị kể chuyện. Chuyện rằng: Các vị Tù Già Lam lên Trại Tù Khổ Sai Z 30 A Xuân Lộc không khổ cực một ly ông cụ nào cả. Các vị được Cán Bộ, tức Cai Tù, cho ra chợ mua đồ, uống cà phe phin, nghe Nhạc. Nhạc không phải Nhạc Thường, Nhạc Xưa, Nhạc Quốc Gia trước 1975 mà là Nhạc Hải Ngoại, Nhạc Bi Giờ do các nữ ca sĩ người Việt ca hát ở Mỹ Quốc.

Mèn ơi.. Tôi nghe chuyện mà mê mẩn tâm hồn. Tù VC khổ sai gì mà được phây phây ra chợ ăn hủ tíu, uống cà-phe, nghe Nhạc Việt Hải Ngoại! Sắp đến ngày tôi phải rời Thánh Thất thân quen để đến Trại Tù Khổ Sai, đêm đêm tôi ước, tôi mơ tôi được đến Trại Z 30 A như chư vị sư tăng Già Lam Chống Cộng. Được đến đó, một trong những việc đầu tiên tôi làm là xin Cai Tù cho đi theo ra chợ, tôi sẽ ngồi quán nhâm nhi ly cà phe phin, rít năm bẩy điếu thuốc lá có cán, bồi hồi nghe tiếng những nữ ca sĩ Việt hát ở đất nước Huê Kỳ Xa Xôi Tít Mút Tịt Mù Củ Tỷ Long Vương ở tận bên kia biển lớn. Chao ơi. Tù VC mà được như thế, còn đòi gì hơn!

Ngày 20 Tháng Giêng Ta, Tết Nguyên Đán vừa qua được 20 ngày – đầu năm 1989 – tôi ôm chiếu theo anh em lên tù xa vĩnh biệt Nhà Tù Chí Hòa. Sáng mùa xuân trời lạnh lạnh. Xe ra xa lộ. Tù ngồi bệt trên sàn xe, bị còng một chân vào cây sắt, có anh em ở cuối xe đứng lên nhìn qua chấn song ra ngoài. Tôi nhẹ người khi nghe một anh nói lớn:

– Ngã Ba Ông Đồn. Xe quẹo dzô. Chúng ta đến Z 30 A.

Thế rồi.. những ngày như lá, tháng như mây. Tôi đến Z 30 một buổi sáng đầu xuân, tôi rời Z 30 A trong một buổi sáng đầu xuân. Một sáng đầu năm 1990, ra Tết, tức ra Giêng được mấy ngày, trời còn lạnh, mãn án tôi ra về, Sư Ông Lê Mạnh Thát tiễn tôi đến cổng trại. Từ Nhà Tù Chí Hòa, Sư Ông đến Trại Tù Khổ Sai Z 30 A trước tôi 2 tháng. Khi ấy Z 30 A đã có vị Tù Nhân Linh Mục Nguyễn Công Đoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam. Linh mục bị án tù 14 năm. Linh mục có khả năng giúp được nhiều người tù đỡ khổ, như ông tổ chức Tổ Đan Lát cho những ông tù già lão có việc làm trong trại, trong nhà, để những ông này không phải đi cuốc đất, gánh nước tưới tiêu, điều, mía, đào mương, áp tải Xe Vàng, tức Xe Phân Tù, đẩy ra đổ xuống ao làm phân bón. Cai Tù VC không thể để cho người tù ở không mà không lao động, dù người tù già lão không còn vác nổi cây cuốc. Linh mục về Sài Gòn – đang ở tù người tù vẫn được về Sài Gòn “làm công tác cho Trại”, miễn là kiếm được đồ, như bóng đèn, dây điện, ống dẫn nước, hay tiền cho Trại, – Linh mục tìm người có tiền, có lòng tốt, bày ra chuyện mua cói, lát, cho xe chở lên trại tù. Một nhóm ông tù già được ngồi ở hội trường làm việc đan lát. Chừng một, hai tháng xe chở cói, lát từ Sài Gòn lên Trại, lấy số sản phẩm tù làm được đem về. Tiền mua sản phẩm được nạp hết cho trại. Linh mục tổ chức một Tổ Dịch Thuật cho các ông tù “trí thức” Z 30 A là Nhà Văn Doãn Quốc Sĩ, Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Kỹ sư Ưng Sơ, Tiến Sĩ Sử Học Mã Thành Công làm, để các ông tù này khỏi phải đi cuốc đất, gánh nước tưới cây ngoài trời. Tôi, may ơi là may, được Linh Mục thò bàn tay bác ái ra kéo vào làm việc trong Tổ.

Con người ta Số Nghèo thì đi đến đâu, đến xứ nào, kể cả đến xứ giầu nhất thế giới, cũng nghèo, cùng một lẽ ấy, con người Số Nhàn thì có đi tù cộng sản, loại nhà tù làm người tù bị cực khổ nhất kể từ ngày loài người bầy đặt ra nhà tù, cũng vẫn cứ nhàn, vẫn cứ không bị khổ lắm. Chuyện ấy tôi có thể tự cho là tôi biết rõ. Bởi vì:

Về cái gọi là “sở học” thì, mèn ơi, nói ra tôi mắc cở. Mắc cở lắm chứ không phải mắc cở vừa. Nhưng mắc cở, mắc cung, mắc kẹt, mắc áo, mắc quần, mắc su-cheng gì gì thì đã nói ra tôi cũng phải nói cho đúng thôi. Cái gọi là “sở học” của tôi nó mỏng như cái lưỡi mèo, nó èo uột như cái bánh tráng gặp nước, nó nhão nhoẹt như bún thiu, nó chua như cơm vữa; vốn chữ nghĩa của tôi đựng không đầy cái lá mít; về tiếng Tây, tiếng U tôi có biết chi đâu. Dzậy mà nhờ Số Nhàn, trôi dzạt trên đường tù đày đến Trại Tù Khổ Sai Z 30 A tôi không phải đi cuốc đất ngày nào, tù Cộng sản 8 năm, tôi không biết mặt mũi cái cuốc nó ra làm sao. Ở Z 30 A tôi may mắn được Linh Mục Nguyễn Công Đoan làm phúc cho dzô Ban Dịch Thuật do Linh mục làm Trưởng Ban.

Thế là tôi, ngày ngày – anh em tù tập họp ra sân ngồi từ 7 giờ sáng, 8 giờ xuất trại đi làm, tôi 9 giờ tà tà lên văn phòng, ngồi dịch sách đến 12 giờ trưa về phòng tôi ăn cơm, ăn xong ngủ một giấc, 2 giờ, 2 giờ 30 đủng đỉnh trở lên văn phòng, ngồi dịch sách đến 5 giờ, ra sân vận động chạy vài vòng ếch-xẹc-sai, chiều nào có bạn tù biết chơi bóng bàn được rảnh tôi đánh ping pong – hội trường Trại Z 30 A có bàn ping pong – đến 7 giờ tối, về phòng điểm danh, tắm, ăn tối..vv..vv. Rồi tối xuống tôi phây phây nằm đọc sách, có bóng đèn điện treo ngay trên song sắt đầu chỗ nằm đàng hoàng.

Về đèn điện ở Z 30 A xin được kể: Z 30 A có máy điện riêng, chạy bằng xăng, mỗi phòng tù có một bóng đèn điện treo giữa phòng. Riêng phòng tù có nhân viên Ban Dịch Thuật nằm thì ngoài bóng đèn điện chung treo giữa phòng, Người Tù Lê Mạnh Thát có một bóng đèn điện riêng treo trên song sắt đầu chỗ nằm. Thuyền đua thì lái cũng đua, Người Tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát có bóng đèn điện riêng để tối đọc sách, Người Tù Công Tử Hà Đông cũng bon chen xin có một bóng đèn điện riêng treo ở đầu chỗ Công Tử nằm. Phòng giam có điện từ 6 giờ tối, 9, 30 tối điện tắt, Người Tù Lê Mạnh Thát vẫn có đèn sáng để đọc sách tới khuya, Nhà Chùa gửi vào tù cho Sư Ông một cái đèn 2 bóng neon, loại đèn xách tay người Nhật, người Nam Hàn, người Hong Kong, người Singapore, mang đi cắm trại ngoài trời. Đèn này có thể nạp điện của trại, thành ra ở tù CS mà Sư Ông có đèn điện đọc sách suốt đêm.

Về việc làm của Ban Dịch Thuật: Sách, tài liệu để dịch, đa số là tài liệu truyền giáo Gia Tô ngày xưa, tiền, giấy bút do nhóm Linh Mục Trương Bá Cần cung cấp. Mỗi tháng khoản tiền 1 triệu đồng tiền Hồ được trả cho bọn tù dịch sách. Số tiền này được nộp hết cho Trại. Tôi kể dzài dzòng để nói rằng ở Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, nhờ làm công việc dịch thuật, lúc 10 giờ sáng một ngày đầu xuân, khi chàng Công Tử Hà Đông, sau 6 năm tù, nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm, làm cuộc trở về thành phố xưa, mái nhà cũ, vòng tay không ấm, không lạnh của người vợ hiền, Trại Tù vắng tanh, anh em tù đi làm lao động hết, Người Tù Sư Ông Trí Siêu mới có thể đưa tiễn Người Tù Công Tử Hà Đông ra đến cổng Trại Tù Khổ Sai Z 30 A Xuân Lộc, Đồng Nai.

Với tư cách là người tù sống sát sàn sạt Sư Ông Trí Siêu trong 5 năm, tôi tự cho tôi có cái quyền nói rằng anh Văn Nô VC ca tụng Thiền Sư Cao Tăng Trí Siêu “biết, nói được, viết được, 15 thứ tiếng người” là vẫn còn thiếu!

Thiền Sư Cao Tăng Trí Siêu còn nói được tiếng Tây Bồi nữa!

Một chiều, có thể là trong năm 1986, có thể là trong năm 1987, lâu quá dzồi không nhớ đúng năm tháng, trong Phòng Tù Số 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa, như thị ngã kiến, như thị ngã văn: Cao Tăng Trí Siêu nói một tràng tiếng Hoa – tức Tiếng Tầu, tù Chí Hòa không được nói “tiếng Tầu, người Tầu“, phải nói là “tiếng Hoa, người Hoa” – với một ông Tù Tầu. Tôi thấy ông Tù Tầu mặt ngẩn tò te, rồi nói:

– Ông nói tiếng Việt đi, ông nói tiếng Hoa, tôi nghe không có được. Tội nghiệp tôi mà!

Một chiều khác, Tù Phòng 10 ED ra hành lang lấy nước bơm lên lầu xong, trở dzô chuồng, tù Phòng 11 ED ra hành lang lấy nước. Cao Tăng Biết 15 Thứ Tiếng Người Trí Siêu trong Phòng 10, ở trần, quần sà-lỏn, đứng sau hàng song sắt, nói tiếng Tây với một ông Tù Phòng 11, ở trần, quần sà-lỏn, ngồi xổm ngoài hành lang. Hai ông Tù nói tiếng Tây với nhau làm tôi rợn tóc gáy. Sau đó tôi nói với Cao Tăng:

– Thời tôi 10 tuổi, tôi thấy có những Ông Tây Gỗ, bây giờ tôi lại thấy có những Ông Tây Ni-lông!

Năm 1986, hay những năm 1987, 1988, trong Phòng Số 10 Nhà Tù Chí Hòa tôi nghe Sư Ông Sở Học Uyên Áo của bọn Văn Nô VC nói tiếng Tây, bây giờ là Tháng Năm 2008 ở Kỳ Hoa Đất Trích – 20 năm trôi qua trên Dòng Thời Gian Xanh Biêng Biếc, hôm nay nhớ lại chuyện xưa, tôi thấy “Tây Gỗ” là tiếng người A Nam những năm 1930, 1940, gọi những ông A Nam bận đồ Tây, tức bận quần áo Tây, chưa quen, ngượng, đứng ngồi, đi lại cứng ngắc như người bằng gỗ, không phải “Tây Gỗ” là tiếng để gọi những ông A-na-mít nói tiếng Tây Bồi.

Về tiếng Tây, từ lâu tôi vẫn tưởng tôi là người nói tiếng Tây Bồi bồi nhất Bắc Kỳ, bồi nhì Đông Dzương, bồi ba Đông Nam Á. Có dzô Nhà Tù Chí Hòa mới biết trong tù có những người giỏi tiếng Tây Bồi hơn tôi nhiều.

*****

Ngừng viết, tôi thả hồn tôi bay qua biển, trở về Nhà Tù Chí Hòa. Một buổi trưa tôi xuống tù xa, ôm chiếu, xách giỏ nệm quần áo, mùng mền, theo anh em tù đi vào Nhà Tù Lớn Chí Hòa. Tôi đứng trong sân nhà tù, nhìn lên, vòng quanh tôi là những tầng lầu và những hàng song sắt đen. Tôi bồi hồi tự nhủ: “Đây là Nhà Tù Chí Hòa. Mình đang đứng trong Nhà Tù Chí Hòa, Nhà Tù Lớn Nhất Đông Dương. Người Sài Gòn phải đi tù, nếu chưa vào Nhà Tù Chí Hòa, vẫn chưa hẳn là Tù. Ngày nào mình ra khỏi đây mình sẽ tự kiêu, mình sẽ cho mình hơn người vì mình đã sống trong Nhà Tù Chí Hòa.”

Tôi sống 4 năm trong Nhà Tù ấy. Dương Hùng Cường, bạn tôi, cùng đi vào Nhà Tù Chí Hòa một giờ, một ngày với tôi, chúng tôi cùng bọn, cùng bị bắt một đêm, cùng đi trên một xe tù từ Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu sang đây, đã chết trong Nhà Tù này. Anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, ông đàn anh của tôi, bị ghép là đồng bọn với bọn Biệt Kích Cầm Bút, từ Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu sang Nhà Tù Chí Hòa này trước tôi một tháng, đã chết trong Nhà Tù này.

Tôi vào Nhà Tù Chí Hòa nhưng tôi không bị chết trong đó, tôi ra khỏi Nhà Tù đó, cuộc đời dàn xếp cho tôi sang sống ở nước Kỳ Hoa. 20 năm sau ngày tôi ra khỏi Nhà Tù Chí Hòa, hôm nay, một sáng Tháng Năm 2008, trong tuổi phong sương, huỵch toẹt là trong tuổi đứng ở cổng vào Nghĩa Trang, tôi viết những dòng chữ này về một số người tôi đã gặp, đã cùng sống trong Nhà Tù Chí Hòa.

Một ngày năm xưa, có thể là năm 1987, có thể là năm 1988, trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa, Sài Gòn, Tù Nhân Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát nói:

Sít-ta-lin nó cho viết bậy Lịch Sử Đảng Cộng Sản Liên Xô. Dzậy mà cũng cong lưng ngồi dzịch. Chí Minh cái gì, Chí Ngu thì có.

*****

Khi nói câu đó Sư Ông là Người Phật Tử muốn “lật đổ bàn thờ Bác Hồ.” Sư Ông muốn lật đổ bàn thờ Bác Hồ để cho đồng bào ông khỏi khổ. Bọn Cộng coi ý muốn cứu dân khỏi khổ của Sư Ông là có tội – có tội với chúng – chúng xử Sư Ông án Tử Hình. Nay Sư Ông được bọn đàn em những tên VC 20 năm trước đã pháng án Tử Hình Sư Ông, nâng bi Sư Ông là Cao Tăng, không chỉ Cao Tăng Thường mà là Cao Tâng Sở Học Vi Dziệu Cao Thâm, nay Sư Ông ra cộng tác với bọn đàn em những tên VC 20 năm xưa lên án Tử Hình Sư Ông. Tôi xa Sư Ông từ năm 1990 – xa nhau đã 18 năm dzài – tôi không biết nay Sư Ông nghĩ gì về bọn Cộng sản, về đất nước, về đồng bào, tôi vẫn nhớ đêm hôm trước ngày tôi phải ra tòa, trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa, Sư Ông biết là tôi sợ hãi, Sư Ông đến chỗ tôi nằm, nói chuyện với tôi cho tôi bớt sợ. Trong tù mỗi người tù chỉ có 10 lít nước để tắm một lần trong ngày. Buổi tối Sư Ông thường để cho anh em tù tắm trước, Sư Ông tắm sau cùng. Khi nhà tù đánh kẻng Ngủ lúc 10 giờ là tù không được tắm nữa. Tối ấy Sư Ông nói chuyện với tôi đến lúc Nhà Tù đánh kẻng Ngủ, Sư Ông có 10 lít nước mà không được tắm, tôi nhớ những buổi tối Sư Ông và tôi, ở trần, bận sà-lỏn, đứng gác chân lên bệ chấn song sắt phòng tù, nói với nhau đủ mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển, tôi nhớ buổi sáng đầu xuân thời gian tù đày của tôi chấm dứt, tôi rời Trại Tù Z 30 A, Sư Ông tiễn tôi ra đến cổng trại.

Sang Mỹ, tôi viết ngay bài “Người Tù Lê Mạnh Thát“, trong có câu:

Khi sống gần Thái Sơn tôi thấy Thái Sơn cũng thường thôi, cũng không có gì cao lắm. Khi sống xa Thái Sơn, tôi thấy, dù sao Thái Sơn cũng cao hơn nhiều núi khác.

Nay sống những ngày cuối đời ở quê người, tôi bồi hồi nhớ lại những ngày tù xưa ở quê hương, tôi ngậm ngùi tự hỏi không biết bây giờ “Thái Sơn Phòng 10 ED Nhà Tù Chí Hòa” cao, thấp, mòn, sắc ra sao.

Cảnh sắc Trại Tù Khổ Sai Z 30 A với tôi thật đẹp, đẹp và thơ mộng. Nhiều vùng đất quanh Trại Tù năm 1989 còn bỏ không, mùa mưa cỏ xanh cao hơn đầu gối người. Một sáng mùa mưa năm 1989 vợ tôi và con gái tôi dắt đứa cháu ngoại của tôi lên Trại thăm tôi, trong lúc vợ con tôi lo làm bữa cơm trưa trong căn bếp của Nhà Khách Trại, tôi dắt cháu tôi đi chơi trong vùng cỏ xanh quanh trại. Trại có hai, ba ao cá được giao cho tù nuôi cá, canh ao. Người Tù nuôi cá sống ngay trong căn lều bên ao cá. Sáng hôm ấy tôi đưa cháu trai của tôi đi chơi và đến thăm một anh bạn tù trẻ canh ao cá. Đi ngang vùng cỏ xanh lên cao tới hơn đầu gối để đến ao cá, tôi để cháu tôi ngồi trên vai tôi. Khi đi qua đồng cỏ tôi nhớ đến Nhà Văn Dostoivesky, Nhà Văn Sozhenytsin khi hai ông bị tù ở Siberia, tôi chắc hai ông không thể làm như tôi được, tôi ở tù CS mà tôi công kênh cháu tôi đi trong cánh đồng xanh, chỉ có hai ông cháu tôi đi trong vùng trời đất xanh ngắt ấy.

Người bạn tù canh ao cá có một radio transistor do người nhà anh mang lên cho anh, tất nhiên là anh nghe lén và cất dấu radio thật kỹ. Hôm ấy trong căn lều bên ao cá, anh kể cho tôi nghe một lô tin anh nghe được từ Đài BBC, trong số có tin nhân vật chống Cộng người Ba-lan Lếch Va-lê-dza nay là Tổng Thống Ba-lan, được mời đến thăm Nhà Trắng, Hoa Kỳ.

Buổi tối, trong phòng giam, tôi kể cho các ông bạn đồng tù, đồng phòng của tôi nghe chuyện Đài BiBiSi. Các ông bạn đồng tù, đồng phòng của tôi tối ấy là các ông Nhà Văn Doãn Quốc Sĩ, Sư Ông Lê Mạnh Thát, Kỹ Sư Lê Công Minh, Kỹ Sư Ưng Sơ, Giáo Sư Mã Thành Công, Linh Mục Tuyên – tôi quên họ của Linh Mục – không muốn nói đến cái radio của người bạn tù ao cá, tôi kể sai đi một chút:

– Con gái tôi nó kể BiBiXi loan tin Lếch Va-lê-dza đến Nhà Trắng. Bớt chào đón mời vào phòng khánh tiết, chụp hình, vỗ tay, rồi Bớt nói:

– Thưa ông Va-lê- dza.. Những năm 1981, 1982, khi được tin ông bị bắt giam, chúng tôi tin chắc có ngày ông sẽ tới đây thăm chúng tôi. Vì vậy chúng tôi cho làm cái ghế đặc biệt này, để sẵn đây, chờ ông đến mời ông ngồi. Hôm nay ông đến, xin mời ông ngồi.

Lếch Va-lê-dza nói lời cám ơn, ngồi xuống ghế. Lại vỗ tay, lại chụp hình, quay phim. Bớt nói tiếp:

– Thưa ông Va-lê- dza, ông thấy ở đây có hai cái ghế giống nhau, ghế này của ông, hôm nay ông đến, ông đã ngồi cái ghế của ông rồi, cái ghế thứ hai này chúng tôi làm sẵn để đợi ngày nào ông Lê Mạnh Thát tới, chúng tôi sẽ mời ông Lê Mạnh Thát ngồi.

Mã Thành Công hói đầu, trong nhà vẫn đội mũ baseball, anh đứng lên ngả mũ chào Lê Mạnh Thát. Sư Ông khoái chí cười ha hả.

Linh Mục Nguyễn Công Đoan mãn án tù, về Sài Gòn trước tôi một, hai tháng. Năm 1990 tôi về Sài Gòn, tôi có đến thăm Linh Mục. Năm 2000, nhân chuyến đi sang Roma, Linh Mục ghé sang Hoa Kỳ. Linh Mục có ông cháu ruột cũng là Linh Mục ở Hoa Thịnh Đốn khu vợ chồng tôi sống. Một buổi trưa nắng vàng tôi đứng dưới hàng cây trước lối vào Housing chờ Linh Mục đến. Tôi bồi hồi nhớ buổi trưa đầu năm 1989 tôi đến cổng Trại Tù Lao Cải Z 30 A, nhớ buổi chiều tôi ở Hội Trường, nơi có văn phòng cho Ban Dịch Thuật làm việc, sắp đến giờ điểm danh, tôi phải về phòng giam. Trời mưa, Linh Mục bảo tôi:

– Anh lấy áo mưa của tôi mà về.

Tôi nói:

– Cám ơn cha. Tôi không mặc áo mưa đâu. Cha cho tôi đi dưới trời mưa. Năm năm rồi tôi không được đi dưới trời mưa ..

Chiều ấy tôi đi về phòng giam dưới mưa, để được cảm thấy mưa rơi trên tóc, trên vai áo, tôi đi chân đất qua những vũng nước mưa trong vắt trong bãi cỏ sân vận động của trại, nhớ lại cảm gíác lội nước mưa ngoài đồng thời tôi làm liên lạc viên trong kháng chiến chống Pháp. Có bị ở tù con người mới thấy những chuyện như đi dưới mưa, lội nước mưa trong bãi cỏ, cảm thấy nắng ấm trên tóc, trên vai, nghe tiếng chim trong vòm cây, nhìn mây trắng bay ngang trời, thấy mặt trời lặn, mặt trăng lên là những lạc thú, những hạnh phúc.

Chuyện Sư Ông Vinh Nhục còn nhiều, nhưng tới đây bài viết đã tạm đủ dzài..! Xin hẹn tuần sau.

.

.

————————————————————-

* Tranh vẽ Bồ Đề Đạt Ma do người sau tưởng tượng mà vẽ: Đạt Ma không có tóc!
** Ảnh Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát, chụp năm 1992 ở Trại Tù Khổ Sai Z 30 A. Sư Ông bận áo tù, nhếch mép cười ngạo mạn.
*** Thời gian ở Hang Pắc Bó, Hồ chí Minh mần thơ khoe dịch Lịch Sử Đảng Cộng Sản Liên Xô. Thơ rằng:
…..
….. Sáng ra bờ suối, tối vào hang
….. Cháo bẹ, canh măng vẫn sẵn sàng
….. Bàn đá chông chênh dịch Sử Đảng
….. Cuộc đời cách mạng thật là sang

6 Responses

  1. Đọc bài Tây Gỗ cuã ba’c Thủy thật thu’ vị Đề nghị Ba’c ghi rõ đoạn đô’i thoại bằng tiê’ng Tây cuã sư ông LMT mà Ba’c nghe được thì còn ly’ thu’ hơn nữa Cảm ơn ba’c Thủy

  2. Most Ven. Prof. LÊ MẠNH THÁT Ph.D (Wisconsin)
    A BIOGRAPHICAL SKETCH
    Vice President, Vietnam Buddhist University

    750 Nguyễn Kiệm, F.4, Quận Phú Nhuận
    Ho Chi Minh City, Vietnam
    Tel: (84-8) 844 2358 ย– 750 2186
    Fax: (84-8) 844 3416 ย– 997 4447
    Email: dhpgvn@vbu.edu.vn

    Education
    1962ย–1965 University of Saigon, Saigon, Vietnam (Đại Học Sư Phạm)
    Bachelor of Arts Majors include: Philosophy & Pedagogy

    1965ย–1974 University of Wisconsin, Madison, U.S.A.
    Doctor of Philosophy (Buddhist Studies Program)
    Topic: ย“The Philosphy of Vasubandhuย”

    Teaching & Research Experience

    1974ย–1975 Vạn Hạnh University Saigon, Vietnam Lecturer (Humanities)
    Subjects taught include Sanskrit, History of Indian philosophy, History of Vietnamese Buddhism

    1975ย–1984 Vạn Hạnh Buddhist Research Institude Tp. Hồ Chí Minh, Vietnam
    Research Fellow Areas of research include: Indic languages and Philosphy and History of Vietnamese Buddhism

    1998ย–Current Vietnam Buddhist Research Institute Tp. Hồ Chí Minh, Vietnam
    Vice Rector Responsibilities include: Directing research on Vietnamese of Buddhism + Indian Buddhism

    2000ย–Current Vietnam Buddhist University, Tp. Hồ Chí Minh, Vietnam.
    Professor and Vice President Subjects include Sanskrit, History of Vietnamese Buddhism, History of Indian philosophy.

    Trích từ :http://www.vesakday.net/vesak50/biography.php?wh_id=47&trnslang=en-us

    Cha’u vưà tìm ra được tiểu sử cuã sư ông LMT. Ông tô’t nghiệp ở Đại học Wisconsin bằng tiê’n sĩ Phật Học, chư’ không phải Ba’c sĩ Y Khoa

    • Rat cam on trai tim ng ban tre da san tim de hieu ro nhung sai lac cua he thong tuyen truyen ve kha nang cua con nguoi. Nhung thac mac cua ban tre lam sang to cung chinh thac mac cua ke hen nay. May God bless you. Chan Thanh.

  3. Phật day: ” Nhân nào quả đó ” chúng mày có nghĩ đến việc làm nhơ bẩn của chúng mày không ??? Trời không dung, đất không tha cho những kẻ bán nước cầu vinh, ăn cháo đá bán, phỉ nhổ tổ tông. Ăn cứt hoa kỳ nói lóa cha ông . Nhục thay !!!!!!!!!

  4. Rất tiếc Anh Hoàng Hải Thủy không có địa chỉ Email nên tôi muốn gữi hình tôi chụp với Cụ Trịnh Sâm tại Los Angeles hồi tôi mới sang Hoa Kỳ theo diện ODP

    Thân mến
    tâm tràng Ngô Trọng Anh

  5. Bài nào của Công Tử viết đọc cũng “đã” quá chời! Tôi là người ưa sưu tầm tiếng tây bồi, để cho thêm phong phú kho tiếng Tây bồi của tôi. Cho nên tôi cũng khoái như ông Nguyễn Mai, ước được đọc lại tiếng Tây của nhà thiền sư “có sở học mênh mông, vi diêu , nha` khoa học nói được 15 thứ tiếng” xem nó ra nàm thao! Nhân đọc muc Ý Kiến Ý Cò dưới bài viết, thấy có anh cu Đào Mả Tổ nào đó, có khẩu khí V.C, cay cú sủa bậy bạ về cứt đái Mỹ gì đó. Này này, tớ bảo cho mà biết: cả cái Đảng ăn cướp của tụi bay hiện nay đang ăn cứt Mỹ, không phải chỉ ăn cứt Mỹ, cứt Nhật, cứt Tầu, cứt Singapo, cứt Đại Hàn, cứt Đài Loan… mà còn ăn cả cứt Việt Kiều chúng tớ. Đứa nào năm xưa ngậm máu phun người tị nạn là đĩ, điếm “nười nao động”, nay quay qua họp nhau làm Nghi quyết, lăm le liếm đit “khúc ruột ngàn dặm” ??? Đứa nào vậy cà ? Hỡi cái anh cu tí DaoMaTo! Chính anh mới là kẻ cùng lũ VC đớp no những thư dơ bẩn của cả cộng đồng quốc tế. Chúng tớ ở Hoa Kỳ, lao động vinh quang, kiếm những đồng tiền sạch và lương thiện để các anh có thể trấn lột, ăn được một it “phân” (fund) của chúng tớ. Có nhớ mỗi năm chúng tớ gửi về bao nhiêu cho các anh ăn chận chăng? Đúng! có luật nhân quả đó, tên VC Dào Mả Tổ ạ! Mày cứ nghĩ là biết ngay đứa nào đang trả quả báo. Mẹ kiếp, “thánh” Lê, Sit của chúng bay nay đã ra bãi rác! Những thằng cộng đầu xỏ như Hôi Nach Cơ, Cu xe’t Cô, Na Zi bu’ Lách đã trả quả như thế nào, mày đã biết! Mấy thằng VC hạng bét như mày mà dám bày đặt nói láo, chắc phải có nhiều cứt trong đầu mới dám liều lĩnh kiểu đó! Ghê thay!

Leave a comment