• Năm 25 tuổi

    hoang-hai-thuy-25-tuoi.jpg

    Hoàng Hải Thủy, năm 25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định, Sàigòn, Năm 1957.
  • Thể Loại

  • Được yêu thích …

  • Bài Cũ

Đêm Cuối Cùng

Như mới hôm qua mà thời gian đã qua gần 30 năm. Khoảng tháng Hai, tháng Ba năm 1984 ông đàn anh của tôi là ông Cao Hữu Ðính cho tôi biết “ta” mới có Ðài Phát Thanh. Lúc đầu một số người miền Trong vô tình bắt được tiếng nói của Ðài này trên radio. Tin truyền vào Sài Gòn. Cái radio Sony sập sệ của tôi bắt được ngay Ðài này. Chúng tôi gọi đó là Ðài Phát Thanh Hoàng Cơ Minh.

Tướng HOÀNG CƠ MINH năm 1980.

Chúng tôi biết Ðài đặt ở vùng biên giới Thái-Lào. Ðài phát thanh một ngày 5 lần, mỗi lần 60 phút. Ðài dùng bande thu sẵn, hai ba ngày thay một bande, bài đọc toàn là bài bình luận, không có tin. Ðài khó bắt nhưng tiếng nghe rõ.

Nhưng chỉ thế thôi cũng làm cho nhiều người Sài Gòn – trong số có anh Cao Hữu Ðính và tôi – nức lòng, phấn khởi, hy vọng. Từ lâu chúng tôi mong đợi quân ta từ nước ngoài trở về chiếm lại đất nước. Trước khi quân ta về ít nhất quân ta phải có Ðài Phát Thanh. Nay quân ta đã có Ðài Phát Thanh, chúng tôi không mừng sao được.

Ðài Hoàng Cơ Minh phát thanh được khoảng 2 tháng thì bị bọn Cộng phá sóng. Ðài vẫn phát thanh nhưng dân Sài Gòn không còn nghe được tiếng nói của Ðài.

Năm 1987 tôi nằm phơi rốn trong Lầu Bát Giác Chí Hòa. Tù Chí Hòa được đọc hai tờ tuần báo Công An và Tuổi Trẻ. Một hôm tôi thấy tin và ảnh ông Hoàng Cơ Minh bị bắn chết đăng trên hai báo. Nhìn ảnh ông: bận quân phục xanh, nằm ngửa, có dòng máu ở thái dương, tôi ngậm ngùi nói với tên con rởm của tôi:

“Ông ấy về nước, ông ấy chết trong nước, từ nay tao gọi ông ấy bằng Ông.”

Tôi nói thêm:

“Tao mà chạy thoát sang Mỹ, tao kiếm tiền, tao ăn chơi. Sức mấy tao về nước.”

Tháng Năm 2012, tôi đọc trong Hồi Ký “Vì Ngọn Cờ Vàng,” – Tác giả Ðinh Hùng Cường – một chương viết về “Ðêm Cuối Cùng của Ông Hoàng Cơ Minh ở Mỹ.”  Tôi xúc động, tôi ngậm ngùi khi đọc những trang chuyện cũ này. Tôi mời quí vị cùng đọc.

VÌ NGỌN CỜ VÀNG. Hồi ký Ðinh Hùng Cường. Trích:

Ðêm cuối cùng với Ðô đốc  Hoàng Cơ Minh..

Dù thế nào đi chăng nữa, việc ra đi bất ngờ của ông Minh cũng làm tôi choáng váng, tôi thương ông nên đã bỏ hết tị hiềm, hết lòng  làm việc với Cụ Lũy để tạo một hậu phương vững chắc yểm trợ cho Ðô đốc Minh. Trong Ðại Hội Chính Nghĩa 1983 tôi đã gặp lại ông, với khí thế lúc bấy giờ, tôi chỉ có thì giờ chào hỏi, và giúp ông để lo công việc, nhưng chuyến về lần này của ông Minh, thì mọi việc đã khác, khí thế, và hào quang cuả Ðại Hội Chính Nghĩa đã không còn nữa, cả một công việc to lớn  với lòng kỳ vọng của đồng bào và cô bác  cho tổ chức Mặt Trận của ông Minh đã bị vẩn đục.

Ðô đốc đã về D.C. năm 1983 với biết bao huy hoàng, biết bao chào đón, tiền bạc  yểm trợ, lòng  thương yêu  ông, thương yêu Mặt Trận lên cao dộ. Ngay cả Ðài CBS là một đài truyền hình lớn nhất, mạnh nhất của nươcù Mỹ cũng lên Evening News  nói về Mặt Trận, mật khu của ông Minh.

Nhưng đầu năm 1987 này, Ðô đốc trở về DC trong đơn côi và buồn thảm. Những người trí thức, đã theo ông một thời,  đi dự họp báo, đi đây đi đó, một điều thưa ông chủ tịch, hai điều thưa ông chủ tịch nay những vị trí thức này, tuy vẫn ở đây, nhưng đã không thấy nữa, có chăng chỉ còn anh em chúng tôi, những người một lòng thương yêu, xót xa ông.

Chúng tôi gồm Ðô đốc Hùng, Thái, Cường lớn (là tôi), Cường nhỏ chồng Diệp,  Dr. Nguyệt Nga, Liêm, Long Ðinh, Tuyên, Diệp và ba chị em Phương, Quyên, và Hân, chúng tôi tụ tập  đón ông Minh ở nhà Thái.

Ðô đốc Minh về đây để giải độc vụ ông Nguyễn Xuân Nghĩa, người mà ông Minh yêu mến cho là có tài viết những bài bình luận phóng về trong nước tạo rối loạn cho chế độ Cộng Sản, nay ông Nguyễn Xuân Nghĩa bị ông Phạm Văn Liễu tố cáo  là cháu của Tổng bí thư  VC Nguyễn Văn Linh.

Vụ cách chức ông Phạm Văn Liễu, và thay ông Liễu bằng ông Nguyễn Kim Hườn, biệt hiệu là  Nguyễn Kim, làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải ngoại. Chuyện này đã phân hoá nội bo Mặt Trận, và gây sôn sao đồng bào hải ngoại không ít.

Cuộc chuyện trò trong tình thân đến đêm thì Ðô đốc Hùng, các anh em trẻ chào từ biệt Ðô đốc Minh.  Tôi ở lại nhà Thái, Thái và tôi thức suốt đêm nói chuyện với Ðô đốc Minh. Ðô đốc Minh đã tâm sư với chúng tôiï, ông nói đến những  khó khăn trong việc tuyển mộ  người và  những tính xấu của những đoàn viên mới tuyển mộ được ở trong chiến khu. Phải mất rất nhiều thì giờ để sửa đổi, và huấn luyện họ rất chật vật trước khi có thể giao công tác cho họ.

 Kế đến là chuyện đài phát thanh kháng chiến, đài đã phát thanh đều đặn về quốc nội, kêu gọi đồng bào tham gia kháng chiến chống lại bạo quyền Cộng Sản. Ông Minh đã vạch ra con đường đi trước mắt, đầy chông gai, và khó nhọc. Ông cương quyết, đã dấn thân thì phải có bổn phận làm tròn công việc.

Tôi và Thái lo ngại cho ông Minh về những chuyện trưóc đây ông Võ Ðại Tôn đã mắc phải và đã bị Việt Cộng bắt sống. Tôi thấy Ðô đốc Minh tự tin và hơi tự phụ khi bày tỏ quan điểm về trường hợp ông Võ Ðại Tôn,  điều này tôi chưa bao giờ thấy ở nơi ông, một người cẩn trọng đắn đo trong mọi vấn đề.

Ông nói với tôi và Thái:

“Thật là một điều tôi không hiểu nổi. Ðã đem thân về nơi miệng cọp, mà thiếu điều nghiên, thiếu tổ chức, để cho địch bắt sống thì thôi thật là hết biết nói. Tổ chức của tôi rất thận trọng, và chắc chắn là chuyện đó sẽ không xảy ra.”

Tôi nghe ông nói mà lòng bỗng dưng nổi lên một niềm e ngại, cách phát ngôn lạ thường của ông Minh làm tôi nghĩ đến những điều chẳng lành sẽ xảy ra cho ông khi ông về nước, nhưng tôi không dám nói ra lời.

Ðêm càng khuya, ông càng thân thiện, ông mở toang cánh cửa đấu tranh khó khăn không cần dấu diếm, không dùng lý luận, bằng lời chân thật, ông đã nói nhận định của ông về Nguyễn Xuân Nghĩa, về Phạm Văn Liễu, về Nguyễn Kim, và những người chúng tôi không biết ở trong chiến khu..

Năm xưa tôi đã sống thân tình với ông, cận kề bên ông ngày đêm, năm tháng, trao đổi đủ thứ chuyện, đời tư, đời công, toan tính, và mưu cầu đại cuộc cùng ông. Chưa bao giờ tôi thấy ông thân mật, cởi mở như đêm nay. Phải chăng ông đã nhìn thấy con người tôi, yêu ông và trung thành với ông. Tôi đã xả thân giúp ông gây dựng hai lực lượng đáng kể là Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại và Quân Dân Việt Nam Hải Ngoại để làm bàn đạp cho ông bước lên thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam. Rồi tiếp theo, ông đã về lại đây vùng D.C. (1983) này với bao huy hoàng rực rỡ.

Tôi không gia nhập tổ chức của ông, nhưng sau lưng ông tôi vẫn âm thầm làm việc xâm mình chết bỏ, giúp cho Ðại Hội Chính Nghĩa Thành Công vượt bực. Với vị trí của ông lúc đó, thì bao nhiêu việc lớn của ông, ông không cần nhờ cũng có nhiều người tình nguyện giúp, như  tìm gặp Dan Rather, người Anchor Số Một của Ðài CBS để Dan Rather phỏng vấn ông.. và nhiều chuyện khác nữa.

Thế nhưng có những chuyện nhỏ của ông, ông không thể nhờ ai được ngoài tôi, ông vẫn điện thoại cho tôi làm tí này, làm tí khác, như chuyện ông cần làm bằng khen thưởng cho anh Huỳnh Lương Thiện, trong lúc đó máy vi tính còn quá thô sơ không thể in được, phải mua giấy căn-ke có chữ sẵn, dặt sấp, cà từng chữ, công việc rất chậm và kiên nhẫn này đã nhờ anh Nguyện hoàn thành, khi xong nó cũng thành cái bằng khen với chữ to, chữ bé như là in vậy, ông Minh trao bằng khen đó cho Huỳnh Lương Thiện, và nói bằng khen này được làm ở chiến khu.

 Chưa hết, ông Trần Minh Công nửa đêm gọi phone cho tôi, nói là chiến hữu chủ tịch nhờ tôi vô phòng triển lãm lấy bộ đồ kháng chiến cho ông để ngày mai ông mặc đi họp, và ngay cả việc vợ con gia đình ông, ông cũng hỏi tôi, và tôi ío lần nói cho ông biết là người ông  tìm kiếm đang ngồi nói chuyện với vợ tôi, và tôi đã đưa phone cho bà Minh để bà nói chuyện với ông vài câu. Vì bận công việc qúa ông  không biết tìm vợ con ông ở đâu.  Phải chăng ông đã nhìn thấy tấm lòng chân thật của tôi, khi ông trở lại sau đại hội chính nghĩa, không còn kèn trống nhưng vẫn còn nguời thương ông.  Hay ông đã ngộ ra,  đấu tranh phải giãi bày tấm lòng thành thật, mới thu hút được lòng người bền lâu mà ông thay đổi chăng?.

Ðêm càng về sáng, tôi càng thấy ông Minh nói chuyện với chúng tôi thắm thiết, thành thật, ấm tình người.  Tôi thấy gần gũi ông nhiều hơn, và tất cả những xung đột chính kiến giữa tôi và ông có từ nhiều năm trước hầu như tan biến trong đêm cuối cùng ấy, tôi không cần một cốc cà phê nào, mà tâm hồn tôi thoải mái, tỉnh táo hầu chuyện ông suốt một đêm dài. Tôi trộm nghĩ, nếu ông Minh chọn cách sinh hoạt như  hiện thời với tôi, mà dùng trong nhiều năm trước, tôi tin rằng sẽ có rất nhiều anh em theo ông, theo đến cùng, trong đó có cả tôi.

Một chuyện lý thú mà Ðô đốc  kể  cho tôi và Thái nghe vào lúc gần sáng:

“Nước Nam Hàn tổ chức một Hội nghị Phi Liên Kết, ban tổ chức mời nhiều nhân vật  quốc gia tham dự, trong đó họ có mời ông Nguyễn Cao Kỳ, ông Phạm Văn Liễu và Ðô đốc Minh.  Từ Thái Lan, ông Minh  lên đường phó hội. Khi đến Hồng Kông, máy bay tạm ngừng tại đây, thì không hiểu sao Quan Thuế của Hồng Kông biết được,  họ lên phi cơ xét passport của ông.  Họ hỏi ông   là “passport” của ông do quốc gia nào cấp?

Ông Minh trả lời :

“Nước tôi. Việt Nam Tự Do.”

Việt Nam Tự Do không có trong danh sách quốc gia trên thế giới. Sổ Thông hành của ông  do chính ông làm ra. Làm sao mà hợp pháp.  Quan thuế Hồng Kông rất thông cảm và không tạo rắc rối.  Họ nói với ông Minh là điểm đến của ông là Nam Hàn, họ sẽ không làm phiền gì ông cả, nếu ông không xuống đất, cứ ngồi trên tàu bay, cho đến  khi máy bay cất  cánh. Ông Minh là người nghiêm trang, ít khi đùa bỡn thế mà trong câu chuyện này ông đã kể cho tôi và Thái nghe với nét mặt vui tươi, thú vị. Không hiểu làm sao, tình báo của Cộng Sản Việt Nam biết được chuyện này. Bọn nó đã phản ứng dữ dội với chính phủ Nam Hàn. Áp lực mạnh mẽ của Cộng Sản Việt Nam đã gây trở ngại lớn cho ông Minh.  Cảnh sát phi trường Nam Hàn không cho ông Minh xuống máy bay, họ giữ ông ở phi trường để tống xuất ông Minh về Thái Lan. Khổ nối, vì ông tự làm lấy sổ thông hành, mà sổ thông hành này không được quốc tế công nhận. Bây giờ ông Minh cũng không có giấy nhập cảnh Thái Lan, và chắc chắn, khi về đến Thái Lan thì tình trạng ông Minh cũng sẽ vẫn như thế này, không xuống đất được, vì không có giấy nhập cảnh Thái Lan.

Ông Minh cho biết, trong khi ông bị giam lỏng trên máy bay, thì ông Liễu, Tổng Vụ Trưởng của ông đến Nam Hàn từ nước Mỹ, không  gặp trở ngại giấy tờ, và là nhân vật hợp pháp trong đại hội quốc tế này. Ôâng Liễu đã không hề đả động, hay thăm hỏi ông Minh lấy một lời, ông cứ lo vui chơi và đọc diễn văn, không quan tâm một tí nào về tình trạng của ông Minh. Trong khi đó thì ông Nguyễn Kim chạy đôn chạy đáo, vận động với chính phủ Thái để xin thủ tục nhập cảnh trở lại Thái Lan cho ông Minh. Rồi việc ông Minh ăn uống trên tàu bay cũng do ông Kim lo lắng và cung cấp. Ông Minh  rất căm hận ông Liễu đã bỏ rơi ông,  trong khi ông bị muôn vàn khó khăn về thủ tục giấy tờ.

Trời đã sáng rõ, chúng tôi đưa ông Minh ra phi trường, ông sẽ đến một vùng nghe như Oklahoma để giải độc anh em về những nứt rạn của Mặt Trận.

Lúc đó ông Minh đã ở trên tuổi ngũ tuần (55 -56) gì đó, tôi thấy ông thật là một con người can đảm và chịu đựng, đổ vỡ không sờn, quyết chí và quyết tâm làm việc. Cả ngày hôm trước tôi không biết ông làm gì, nhưng buổi chiều hôm qua, và suốt đêm ông đã thức với tôi và Thái. Trưa nay, ông gặp một số anh em khác. Lại giải thích, lại nói chuyện hàn gắn một tổ chức, mà từ lúc mới hinh thành đã có nhiều khó khăn, lủng củng.

 Ông Minh lạc lõng trong  phi trường National nằm sát D.C. Hôm ấy ông bận bộ đồ đen,  bộ râu trên khuôn  mặt Á Ðông làm ông trông giống một nhà truyền giáo nhiều hơn là một lãnh tụ cuả một tổ chức lên đường đi Giải Phóng Quốc Gia Việt Nam khỏi chế độ tham tàn Cộng Sản.

Vừa đến Phi trường thì Ðô đốc sờ túi và hoảng hốt nói là ông quên mất cái kính trắng ở nhà  Thái,  thế là Thái phải lái xe về nhà lấy kính cho ông, trong khi tôi ở lại phi trường giúp ông đổi vé, chờ chuyến phi cơ sau, và ngồi ăn sáng với ông.  Thái trở lại, chúng tôi ngồi thêm một lúc nữa rồi tiễn ông đi trong cái bắt tay thật chặt, nồng ấm và buồn khi phải xa ông.

Ðó là lần chót tôi gặp ông Hoàng Cơ Minh – đầu năm 1987 – và sau đó tôi nghe tin  ông chết.

Ngưng trích VÌ NGỌN CỜ VÀNG.

CTHÐ: Trong hồi ký, tác giả Ðinh Hùng Cường gọi Tướng Hoàng Cơ Minh là Ðô đốc.

CÔNG TỬ HÀ ÐÔNG

* Quí vị muốn đọc Vì Ngọn Cờ Vàng xin liên lạc:

Ðinh Hùng Cường
11608 Brockman Ln
Great Falls, VA 22066

(703) 450.7081 / e-mail : cuongtram.dinh@gmail.com

Ấn phí $30.

5 Responses

  1. Đây là một vấn đề khá tế nhị với nhiều người. Em để link dưới đây cho ai muốn tham khảo thêm ý kiến ngược chiều:

    http://www.tinparis.net/thoisu10/2010_08_02_MTKHHoangCMinhLuaBip_SonTung.html

  2. 27/5/2012

    Nhớ lại những năm đầu ’80, bắt được đài Mặt trận QG, thấy đã luôn, trùm mình trong chăn, nghe từng chữ từng lời; ngoai hẻm thì việt công đi sục sạo như chó khắp nơi. Sáng hôm sau, bạn bè gặp nhau mừng rỡ hỏi thăm bàn luận nho nhỏ về ông Minh, người Anh Hùng Dân Tộc, phẩm chất và khí phách hơn hồ tặc xa ( dựa vào liên xô và trung cộng hay hot boy NTD ngủ với mỹ và tàu cộng luôn ). Ông không dựa vào mỹ hay thế lực ngoại bang nào khác, mà dám đơn thân mưu đại sự giải phóng quê nhà. Nhưng chính vì không thấy chiến lược toàn cầu của mỹ muốn ngoại giao làm ăn với việt cộng, nên họ không để Ông và mặt trận phá hỏng việc. Nhưng dú sao đi nữa, Đề đốc Hoàng cơ Minh vẫn xứng đáng
    được đưa vạo lịch sử dựng và giữ nước chống độc tài cộng sản Việt Nam áp đặt chủ nghĩa ngoai lai Mác Lê ( nhưng nay chỉ đội lốt thôi, nó còn hơn quân chủ phong kiến nữa ) và đàn áp dã man dân tộc VN. Ông đã không thành công nhưng thành nhân ( Nguyễn thái Học ).Bái phục!

  3. Bác Bacthan kính.

    Vì cháu không biết bài viết về vị Tướng Nguyễn Ngọc Loan nằm ở chỗ nào. Nhân đọc được bài này nói về ông. Bác cho cháu được copy vào đây tạm.

    Kính.

    Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan.Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.

    Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).

    Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?

    Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.

    Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).

    Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:
    – Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
    – Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
    – Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.

    Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.

    Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.

    Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN

    Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).

    Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần : MTGPMN và chính quyền VNCH.

    Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.

    Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.

    Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN

    Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.

    Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.

    Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.

    Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.

    Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.

    Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.

    Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì ?

    Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị : “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao ?” Chị đáp : “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi ?

    Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi ! Lý do : không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.

    Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH ?

    Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu ?

    Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối-xứng để răn đe CS Bắc Việt ? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung ? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội : Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.

    Tướng Nguyễn Ngọc Loan

    CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan

    Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay : “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.

    Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.

    Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long ? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản : Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.

    Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.

    Ai bắn nát chân tướng Loan ?

    Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.

    Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định :

    – Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.

    – Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.

    – Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.

    – Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.

    Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai ?

    2005 : Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura. Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette (8). Chi tiết được biết thêm :

    Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.

    Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.

    Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.

    Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA ?

    Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.

    Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.

    Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.

    Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).

    Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.

    Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.

    Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.

    Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.

    Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin

    Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.

    Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay ?

    Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.

    Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…

    Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.

    Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du

    Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams :

    “Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.

    “Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”

    “Thiếu tướng Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.

    Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”

    Chu Việt

    Tháng 5, 2012

    http://www.vietthuc.org

    Nguồn:

    Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH
    Tuần báo TIME ngày 27 July, 1968
    (1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1968.

    (2) Đại tá Của bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử, Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá Nguyễn Bảo Sĩ (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài này.

    (3) Trong thời gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn), Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN.

    (4) Loại két sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén.

    (5) CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”.

    (6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa

    (7) Đầu đạn “dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng.

    (8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp.

    (9) Đại úy đặc công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6 tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva.

    (10) Xem Chương 15 : “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau ?”.

    (11) Kế hoạch phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số người Việt nhất định :

    – Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản.
    – Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao.
    – Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu.

    (12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68.

    * Theo : Lytuongnguoiviet .

  4. Tôi rất bực mình vì có những nguời mãi đến nay vẫn còn trỏ tay lên án và chửi bới Đề đốc Hoàng cơ Minh và MTQGTNGPVN một cách vô tội vạ.

    Xin hỏi: Từ lúc phong trào MTQGTNGPVN dấy lên cho đến khi họ bị lật tẩy là bao lâu? Hai năm, ba năm hoặc 5 năm? Họ đã gạt được bao nhiêu người, người Việt tị nạn cũng như người ngoại quốc? Mấy ngàn hoặc mấy trăm ngàn người đã bị họ lường gạt, vừa công và vừa của không? Họ gom được bao nhiêu tiền do đồng bào đóng góp? Mấy triệu, hoặc mấy chục triệu? Họ dùng tiền quyên góp ấy để kinh doanh sanh lợi cho MT, hay họ đã tiêu xài nó một cách phung phí? Đồng bào bị họ dí súng bắt theo họ hay chính đồng bào mình đã tự nguyện đến với họ? Họ có độc quyền về những phương tiện thông tin như báo chí, truyền thanh, truyền hình để tuyên truyền ồn ào những luận điệu một chiều của tổ chức họ không? Họ có phóng tay phát động phong trào đấu tố những kẻ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” vốn lúc nào cũng trà trộn trong cộng đồng người Việt tị nạn, để tiêu diệt bọn này và sung công tiền bạc cũng như tài sản của chúng vào quỹ của MT không? Họ có thủ tiêu hàng loạt, bắt giam từng đợt những đồng bào không cùng chính kiến với họ không? Họ có bắt mọi người phải tôn thờ lãnh tụ của họ và bắt mọi nhà chưng hình những vị này lên những nơi trang trọng nhất trong nhà không?

    Và còn hàng ngàn câu hỏi khác về Ông Minh cũng như MTQGTNGPVN mà ta có thể trả lời ngay mà không cần phải suy nghĩ lâu lắc. Điều này đã nói lên một số những ưu đìểm độc đáo của cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại trong những năm xa quê hương đầu tiên. Chúng ta vẫn hằng coi thường những ưu điểm ấy của chính chúng ta, đến nỗi tôi không hề nghe ai nói đến. Đó là chúng ta đã chứng minh rằng:

    — Cho dù một tổ chức, một phong trào, một măt trận nào có qui mô hùng mạnh, lớn lao và quyền thế đến đâu cũng không thoát khỏi luật đào thải của cộng đồng và của xã hội.

    — Luật này chỉ có thể thực thi hữu hiệu khi chúng ta được pháp luật nghiêm minh bảo đảm cho chúng ta những quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do phát biểu vv…

    — Nhờ đó mà những hành vi thiếu minh bạch của Đề đốc Hoàng Cơ Minh và MTQGTNGPVN của ông đã bị dư luận và báo chí phanh phui và cuối cùng là cả tổ chức này đã bị loại bỏ, chẳng qua vì họ đã không đáp ứng được kỳ vọng của cộng đồng người Việt tị nạn, như họ đã hứa hẹn.

    Tuy thế, xin hãy công bằng khi nhìn lại thực tế để thấy rõ một điều là dù có gian dối, láo luờng đến đâu, Hoàng Cơ Minh và Mặt Trận của ông vẫn còn nhiều điểm cho đồng bào VN, trong cũng như ngoài nuớc kính nể.

    Tôi kính nể và hằng ngưỡng mộ, nếu không muốn nói là tôn thờ Hoàng Cơ Minh và mặt trận của ông vì những lẽ sau:

    — Cả Đề đốc Hoàng Cơ Minh lẫn MTQGTNGPNV của ông nói sao đi nữa cũng vẫn là một tập thể có nghĩa khí, có liêm sĩ và lòng tự trọng. Khi thấy mặt trận bị tai tiếng, mất uy tín và không còn được đồng bào hỗ trợ nữa, họ đã thoái trào và tự đào thải trong danh dự sau một vài năm nổi đình nổi đám, để nhường chỗ hoạt động cho những phong trào QG mới .

    Để có thể hình dung một cách thực tế, ta hãy so sánh những gì gọi là “tai hại” mà tổ chức Ông Minh gây ra cho đồng bào hải ngoại TRONG MỘT VÀI NĂM với những tội ác mà bọn côn đồ thuộc đảng CSVN đã gây ra cho toàn dân và đất nước VN từ GẦN BA PHẦN TƯ THẾ KỶ nay. Ai không biết bọn ăn cướp này giết dân, hại nuớc, phung phí biết bao nhiêu nhân mạng và tài nguyên của quốc gia ngay từ ngày chúng lập đảng đến nay? Nhân dân VN nguyền rủa, đồng bào VN căm hận và chống đối chúng bằng nhiều hình thức trong nhiều năm qua mà có “đào thải” được chúng đâu! Không những là không bị đào thải hoặc tự đào thải, chúng lại ngày thêm hung ác, gần đây còn hăm he bán rẻ cơ đồ của cha ông ta cho giặc tàu, chớ có khi nào thấy chúng chùn bước?

    Thử hỏi hồ chí minh và cái đảng cướp của y có còn một chút liêm sĩ, nghĩa khí, óc danh dự và lòng tự trọng nào không, khi so sánh chúng với Hoàng Cơ Minh và mặt trận của ông?

    — “Thắng bại không luận đến anh hùng”, công bằng mà nói, Ông Minh và các chiến hữu của ông chỉ dùng đến những phương tiện nhỏ nhoi, nhân sự vô cùng hạn hẹp và yếu kém mà đã làm cho chính quyền VC phải lo bấn xúc xích lên, làm cho chúng chạy tán loạn, mất ăn mất ngủ cả mấy năm trời. Tôi cho rằng thành tích này đáng so sánh với chuyện châu chấu đá xe của Lý Thường Kiệt, nghe lẫm liêt không kém gì chuyện vua Quang Trung đánh bại 20 vạn quân Thanh trong chỉ trong bảy ngày trời, làm cho triều đình Càn Long rụng rời, vua tôi nhà Thanh thất đảm!

    Rốt cuộc thì VC phải giở trò hạ cấp, chơi ngay ngón nghề tiểu nhân sở trường của chúng là tung tin đồn thất thiệt và đánh lén hậu phương của Mặt Trận ngay trên đất Mỹ. Mà trong tay chúng có toàn bộ đất nước và binh lực, có toàn quyền sử dụng tài nguyên quốc gia bất kỳ lúc nào chúng muốn, mới nói!

    Có bị đánh đến chết, tôi vẫn cho rằng phe ta (VNCH) nói chung và lính ông Minh nói riêng vẫn “BẢNH” và “HÙNG” hơn bọn VC nhiều!

    Tư cách của bọn “lãnh đạo” VC, từ hồ chó mao trở xuống, không đủ để xách dép cho Hoàng Cơ Minh và các chiến hữu của ông!

    Xin thắp một nén hương lòng tưởng nhớ đến Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và những tử sĩ đã hy sinh vì đại nghĩa.

  5. xin duoc dong y voi PL

Leave a comment