• Năm 25 tuổi

    hoang-hai-thuy-25-tuoi.jpg

    Hoàng Hải Thủy, năm 25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định, Sàigòn, Năm 1957.
  • Thể Loại

  • Được yêu thích …

  • Bài Cũ

Người Tầu Gốc Việt

Người Tầu gốc Tầu Ðặng Tiểu Bình thân ái choàng tay lên vai Người Tầu gốc Việt Hồ Chí Minh.

Chiều đầu năm, tuyết mùa xuân Mỹ trắng trên Rừng Phong, tôi viết những lời tình buồn thương nhớ.

Người già chỉ còn Dĩ Vãng để nhớ, để tiếc thương, để kể, người già Việt Nam mất nước, sống biệt xứ ở Kỳ Hoa, ngoài Tuổi Trẻ và Dĩ Vãng, còn có Quê Hương, còn có Sài Gòn để tiếc, để nhớ, để thương.

Hôm nay tôi gửi đến quí vị bài Viết ở Rừng Phong đầu năm NGƯỜI TẦU GỐC VIỆT.

Bài Viết ở Rừng Phong đầu năm này có thể làm cho quí vị buồn. Tôi xin lỗi.

o O o

Những năm 2000, chúng ta có từng này thứ Người Gốc Việt:

  • Người Mỹ gốc Việt
  • Người Anh gốc Việt
  • Người Úc gốc Việt
  • Người Pháp gốc Việt
  • Người Ðức gốc Việt

Gần như không có những thứ Người Việt gốc Pháp, Người Việt gốc Anh, lại càng không có Người Việt gốc Mỹ. Nhưng ta có Người Việt gốc Hoa.

Hôm nay tôi viết về một thứ Người mà tôi nghĩ, tôi sợ sắp có ở vùng đất Ðông Nam Á – có cả trăm triệu người – thứ Người đó là Người Tầu gốc Việt.

Những năm trước 1975 chúng ta vẫn quen gọi người Tầu là người Tầu, đôi khi dzài dzòng là Ba Tầu. Bọn Bắc Cộng vào Sài Gòn, chúng bắt những người Việt Nam Cộng Hoà bị chúng giam tù phải gọi người Tầu là người Hoa, tiếng Tầu là tiếng Hoa. Câu nói  “Nguời Việt gốc Tàu” trở thành “Người Việt gốc Hoa.”

Ở nước Việt Nam Cộng Hòa xưa, quốc gia bị tiêu vong năm 1975, chỉ có những “ Người Việt gốc Tầu,” không có ai là “Người Tầu gốc Việt.” Nhưng đó là chuyện những năm trước năm 1975,

o O o

Trên Trang hoanghaithuy.com có người bạn đọc ký tên là “Hóc Môn” gửi cho một truyện Tình thật ngắn:

Hóc Môn, September 15, 2010:

Tôi góp  một chuyện tình thật ngắn, chuyện có thật và là chuyện  bi thảm.

Trong nghiã trang Giáo xứ của tôi, trên mộ bia của Cố Trung úy Trần, có bốn câu thơ được khắc lên đá:

Chiều xuống trên mộ anh
Hai hàng lệ chân thành
Khóc cuộc tình ngắn ngủi
Thương  anh và Chiến tranh.

Vợ lập mộ.

o O o

Tôi – CTHÐ – có nỗi thắc mắc:

Theo điều kiện của chính phủ Hoa Kỳ: chỉ những sĩ quan Quân Lực Quốc Gia VNCH bị bọn Bắc Cộng giam tù khổ sai trên 3 năm mới được đi HO sang Mỹ. Viết rõ hơn: chỉ những sĩ quan từ Chuẩn Úy bị đi tù khổ sai trên 3 năm mới được đi chính phủ Mỹ cho đi HO sang Mỹ. Có những sĩ quan  tù 2 năm 11 tháng bị ODP từ chối không cho hưởng qui chế HO. Những sĩ quan giải ngũ trước năm 1975 không bị bọn Bắc Cộng bắt đi tù, không ông nào được đi HO sang Mỹ. Như vậy những sĩ quan VNCH bị thương tật, giải ngũ trước năm 1975, không bị đi tù, không chỉ không được đi sang Mỹ mà còn bị không được ai nhớ đến, nhắc đến???

Ðã đành là những thương phế binh của ta sống khổ – có thể nói là khổ nhất trần đời, cực khổ nhất trong tất cả những chiến binh các nước bại trận trên thế giới – nhưng còn trường hợp những sĩ quan của ta bị thương tật giải ngũ trước năm 1975? Sao tôi thấy không một người Việt nào nhắc đến các ông??? Nước tôi có bao nhiêu sĩ quan thương tật bị bỏ rơi? Các ông sống ra sao? Không ai nhắc đến, nói gì đến chuyện thương xót!

o O o

Trên Trang hoanghaithuy.com có chuyện “Tình Việt gốc Hoa.” Mời quí vị đọc:

Người viết Phạm (Chợ Lớn), September 15, 2010:

Tôi không đọc hết những gì ông HHT viết. Nhưng có đọc bài ông tôi cũng không rỏ một giọt nước mắt nào. Nước mắt tôi chẩy vào tim tôi. Bởi đó là một trong muôn triệu giọt nước mắt, dù không chẩy ra,  trong biển khổ trầm luân của người Việt.

Tôi vốn người Việt gốc Trois bâteaux – nhưng tôi hãnh diện  tôi là người Việt gốc Hoa. Tôi đã từng một thời là người lính chiến  của Quân Lực VNCH.

Tôi góp vô đây một truyện thật ngắn. Truyện thật ngắn nhưng có hậu của tôi như sau :

Tôi là học sinh trường Nam Trung học Vỏ Trứng Thối (VTT), trường rất gần với trường Nữ Trung học Trứng Vịt (TV), hai trường cùng ở trên một con đường đầy thơ mộng của thành phố Sài Gòn, đuờng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tôi yêu nàng từ khi tôi học lớp đệ nhị,  nàng học lớp đệ tứ Trường TVù. Một tình yêu âm thầm và đơn phương, nhẹ nhàng mà sâu kín, cô đơn và lãng mạn. Một thứ tình câm lặng. Từ lúc yêu nàng,  tôi biết yêu thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyên Sa v.v … Và nhất là thơ của Vũ Thành “Buồn mắt tím”:

Ðôi guốc tím với hàng gạch tím.
Từ dạo trót yêu em thầm kín,
Nên hay buồn toàn những chuyện không đâu,
Em thoáng quay đi cũng đủ để anh sầu,
Em không khóc như hồi  thơ ấu nữa.
Một buổi chiều mình đi dạo phố,
Họ thì thầm xinh đến thế thì thôi.
Và họ nhìn em xanh biếc một trời.
Mắt thiên nga trời ơi … em đẹp nhất !

Thi xong Tú tài II. Tôi nhất quyết, và lấy hết can đảm, nói lời yêu thương với nàng … Tôi được đáp trả bằng nụ cười từ chối tuy hiền dịu nhưng làm tôi đau đớn.

Thất tình, tôi đăng Lính – Khóa 23 Thủ Ðức. Rồi chiến trận làm tôi bị thương mấy lần. Tôi là lính bị thương được về nghỉ phép ở thành phố, tôi gặp Nàng, Nàng ngoảnh mặt làm ngơ. Không một ánh mắt sót xa, thương hại. Tôi biết tại sao.

Chỉ bởi vì tôi nói tiếng Việt không được sõi. Bởi vì tôi là người Việt gốc Hoa.

1982 tôi đi tù khổ sai về, tình cờ tôi gặp nàng trên phố cũ … Nàng bồng một em bé khoảng 2 tuổi. Dò hỏi, tôi được biết nàng đã có chồng nhưng nàng mới ly dị chồng vì chồng nàng là thằng “Ba Chục Tháng Tư.”

Sợi dây tình do Ông Tơ, Bà Nguyệt đã giăng  đã buộc, nay đến hồi kết. Một là duyên. Hai thời là phận. Sợi xích thằng ai gỡ cho ra. Tôi ngỏ lời yêu nàng lần thứ hai trong đời, lần này nàng không từ chối.

Trải qua bao thăng trầm trong cuộc sống, với những sinh kế muôn vàn khó khăn của cuộc đời mà bọn Cộng Nô đày đoạ nhân dân miền Nam, chúng tôi chung sống vợ chồng, chúng tôi yêu thương nhau.  Nay tôi và nàng có một con làm bác sĩ, một con  làm kỹ sư.

Nay tôi nói tiếng Việt  còn chút lơ lớ. Chỉ những ai tinh tế lắm nghe tiếng tôi nói mới nghi tôi là người Việt gốc Hoa. Hai đứa tôi vợ chồng tình ái bên nhau ở giữa  đám con cháu chúng tôi.

o O o

CTHàÐông: Chuyện Tình thật Ðẹp. Chỉ có một sự kiện thiếu trong truyện là Ông  Cựu Học sinh Trường Võ Trường Toản kiêm Ông Cựu  Sĩ Quan Phạm không viết cho biết ông có đưa bà đi HO sang Mỹ không? Ông bà và gia đình sống ở Mỹ hay vẫn sống ở Sài Gòn?

o O o

Pham (Cholon), January 13, 2011:

Trích: “CTHàÐông: Chuyện Tình thật Ðẹp. Chỉ có một sự kiện thiếu trong truyện là Ông Cựu Học sinh Trường Võ Trường Toản kiêm Ông Cựu Sĩ Quan Phạm không viết cho biết ông có đưa bà đi HO sang Mỹ không? Ông bà và gia đình sống ở Mỹ hay vẫn sống ở Sài Gòn?” – Ngưng trích.

Ôi chao ! Lão Công tử làm tôi cảm động khiến nước mắt của nhà tôi phải nhạt nhòa. Nàng trách yêu :

“Nị” hay ghê nha, dám nói xấu em há !”

Cám ơn ông, tôi chỉ muốn kể lại chuyện một gia đình trong nhiều gia đình của người Lính Chiến QLVNCH sau ngày “Ba Chục Thứ Tang.”

Thưa Lão Công tử, ngày xưa khi còn ở bậc Trung học đệ I cấp, lần đầu tiên tôi được 13/20 điểm cho bài Luận văn (lớp Ðệ Lục) – tôi ôm bài luận ấy về nhà đọc đi, đọc lại hoài mà thấy sung sướng vô hạn. Bởi trước đó những bài Luận văn của tôi chỉ được điểm 9/20,  cao nhất là đến 10/20.

Cảm giác ấy hôm nay còn mạnh gấp mấy lần hơn, khi được đôi mắt của Lão Công tử chuyển thành màu xanh khi đọc bài viết của tôi.

Cám ơn Lão Công tử có lòng trắc ẩn khi nhắc đến những thương phế binh hiện còn sống khắc khoải ở Việt Nam – trong đó có tôi.

Lại cám ơn Lão Công tử đã có lời hỏi thăm về gia đình tôi. Hiện nay toàn gia đình tôi sống ở Việt Nam – dẫu rất muốn ra đi. Nhưng chúng tôi nhất quyết không đi … đến Mỹ – Nếu có thể chúng tôi sẽ đến một nước nào đó, dù là đảo hoang. Nhưng nhất quyết nơi đó không liên quan gì đến Mỹ và không phải là xứ Mỹ.

Nên hiện nay chúng tôi lấy Sài Gòn làm gốc – tức làm chuẩn. Vợ chồng tôi và vợ chồng cháu trai thứ hai của chúng tôi (kỹ sư nông nghiệp) cùng lấy ruộng vườn làm kế sinh nhai, đồng thời để làm nơi lánh nạn cho toàn gia, phòng khi đất nước có biến.

Chúng tôi hận Mỹ vô cùng. Viết rõ: chúng tôi “hận sách lược của Mỹ.” Ðến tận bây giờ cũng vậy, người Mỹ chỉ  biết quyền lợi của họ. Tôi không tin cộng sản (tất nhiên) chỉ có một. Nhưng tôi hoàn toàn không tin bất cứ những gì Mỹ nói tới gấp 10 lần.

Tôi thù cộng sản chỉ có 1, nhưng tôi thù Mỹ tới trăm, tới ngàn lần hơn. Tôi thù Mỹ tới tận xương tủy và trong tim óc.

Tôi nghĩ chỉ những tay súng VNCH lâm trận ở những chiến trường khốc liệt nhất tại Việt Nam mới có, hay thông cảm, nỗi Hận Mỹ của tôi..

Tôi muốn viết một bài về Mùa Hè Ðỏ Lửa của miền Hỏa tuyến (Quảng Trị), tôi muốn lấy bài viết đó thay cho những nén nhang để thắp lên, và khóc lên tỏ lòng thương hận muôn ngàn người dân Việt đã ngã gục vì đạn thù của Việt Cộng, khi họ và gia đình họ trên đường tìm phương lánh xa bọn linh Cộng, năm  1972 trên  Ðại lộ Kinh Hoàng.

Tôi ước ao được viết về cái ngày mà ta thường gọi là “BA CHỤC THỨ TANG” để tạ tội với quốc gia và dân tộc.

Tôi xin chấm dứt thư này, kẻo sức sống cương cường trai trẻ của thời lính chiến trở lại với tôi, làm nỗi uất ức của tôi dâng lên. Tôi e rằng không cách chi kìm hãm được tốc độ và lộ trình của nó.

Tôi muốn nói, nói nhiều lắm. Xin bắt chước ý của ông Vạn Toàn một câu – đối với tôi là bất hủ :

“Tôi sẽ nói mãi, nói hoài về cái ngày mà đất nước tôi và dân tộc tôi bị gông cùm. Nói cho đến chết, nói bằng tất cả nước mắt và máu của tôi.”

Tôi kính gởi nơi đây câu nói tuyệt hay của người bạn chí thân của tôi – Cựu Ðại úy Quân Lực VNCH Hứa Doãn Khương, Ðại Uý Khương nói trước khi ông thở hơi cuối cùng:

“TÔI HÃNH DIỆN TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT GỐC HOA. TÔI MONG TẤT CẢ QUÝ VỊ ÐỪNG Ai VÀ ÐỪNG BAO GIỜ  LÀM NGƯỜI TẦU GỐC VIỆT.

“VÀ TRÊN HẾT, TÔI RẤT HÃNH DIỆN TÔI ÐÃ  LÀ MỘT CÔNG DÂN QUỐC GIA VNCH, MỘT NGƯỜI LÍNH CHIẾN CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA.”

TB – Tôi xin nhấn mạnh. “Mỹ” ở đây mà tôi nói tới – tức là “sách lược của Mỹ.” Không phải là người Mỹ, dân tộc Mỹ, văn hóa Mỹ v.v

Hết thư của ông Phạm (Chợ Lớn.)

o O o

Những năm 1987.1988, trong Nhà Tù Chí Hoà có một số tù Người Việt gốc Hoa, nôm na là Tù người Tầu, nhưng số Tù Tầu này rất ít so với những năm từ 1976 đến 1980. Tù Tầu trong những Nhà Tù Bắc Cộng ở Sài Gòn những năm 1976-1980 đa số bị kết tội là “gián điệp Bắc Kinh,” tức những người Tầu Trung Cộng hoặc thân Trung Cộng. Ðây là thời gian hai tên Cộng Tầu-Cộng Việt từng um hun nhau thắm thít với những lời thề thốt keo sơn “hai nước sông liền sông, núi liền núi; hai Ðảng ngoài là đồng chí, trong là anh em; thân thiết như răng với môi” chuyển sang đánh nhau chí chạt, thằng hộc máu mồm, thằng sồm máu mũi.  Tù Tầu trong những nhà tù Sài Gòn những năm 1980-1990 đa số là Tù tổ chức vượt biên, Tù buôn Vàng, Ðô-la. Trong nhà tù Chí Hoà những năm 1985-1990 còn có vài người Tù Người Việt gốc Miên. Những người Tù Tầu, Tù Miên mỗi năm được một, hai lần – Ngày Tết, Ngày Quốc Khanh – có nhân viên Toà Lãnh Sự nước họ vào nhà tù, gọi ra gặp, hỏi thăm, tặng quà. Riêng có những người Tù Người Việt gốc Việt là trơ khấc, có người nằm tù 10 năm không có tin nhà, không một lần được người thân gửi cho thực phẩm, quần áo. Không phải những người Tù Việt này không có thân nhân hay bị thân nhân bỏ rơi, bọn Cộng trừng phạt họ bằng cách không gửi giấy cho người nhà người tù biết người tù đang bị giam ở đâu. Dù biết người thân của họ đang bị giam trong Nhà Tù Chí Hoà, nếu không có giấy cho phép của Nhà Tù, họ không sao có thể gửi đồ tiếp tế cho người trong tù.

Những năm 1985-1990, những người Tù Việt trong Nhà Tù Chí Hoà thường tự nhân họ là Người Việt Gốc Cây. Tù Người Việt Gốc Cây là thứ Tù bị bọn Cai Tù Việt Cộng thù, khinh, hành tội nặng nhất trong những nhà tù trong Nước Việt.

Từ lâu đã có nhiều người Việt thấy thảm họa của nước Việt Nam là nằm cạnh nước Ðại Ba Tầu, có người Việt ước mơ:

“Ước gì mình có cách cắt đất nước mình rời xa nước Tầu, đưa nước mình ra giữa biển hay đi bất cứ nơi nào khác.”

Tình trạng “sông liền sông, núi liền núi” làm cho nước Việt Nam dễ bị bọn Tầu Bá Quyền thôn tính. Bọn Tầu Cộng nay không cần cho quân sang chiếm nước Việt Nam như chúng từng làm để chiếm nước Tây Tạng, chúng cứ cho dân Tầu sang sống ở Việt Nam như việc chúng đang làm những năm nay.

Cuộc thôn tính sẽ rất hòa bình. Ðến một ngày nào đó số người Tầu ở trên nước Việt sẽ làm chủ mọi quyền hành, quyền lợi. Khi ấy nước Việt Nam Xưa sẽ chỉ có toàn là Người Tầu Gốc Việt.

Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn. Nước Việt  mất.”

Với tâm trạng bi thương, tuyệt vọng, tôi viết vài dòng nói với những người Việt đến cõi đời này sau tôi:

“Thưa bạn,

“Rất có thể những dòng chữ này, qua năm tháng, hôm nay đến dưới mắt bạn. Xin cho tôi hỏi:

“Năm nay là năm bao nhiêu? Năm 2100. 2150? Nước Việt Nam ta còn hay đã trở thành một tỉnh của nước Tầu?

“Bạn là Người Việt hay bạn là Người Tầu gốc Việt?

“Bạn cứ trả lời thầm. Rất có thể tôi nghe được tiếng trả lời của bạn.

“Cám ơn bạn.”

22 Responses

  1. Tình hữu nghị “răng – môi” giữa hai nước tàu cộng và việt công chỉ là môi mép ngay từ những lúc khẩu hiệu này được rêu rao qua bộ máy tuyên truyền của hai nước.

    Ngay khi nghe những khẩu hiệu này, tôi còn nhớ ba tôi lắc đầu nguầy nguậy, miệng lẩm bẩm chữ “Không khá!”

    Tôi hỏi ông tại sao thì ông nói “Mày cứ nhìn cái miệng của thủ tướng đồng là biết ngay tình hữu nghị của chúng nó thắm thiết đến đâu !”

  2. [Trích CTHĐ]
    Năm nay là năm bao nhiêu? Năm 2100. 2150? Nước Việt Nam ta còn hay đã trở thành một tỉnh của nước Tầu?
    “Bạn là Người Việt hay bạn là Người Tầu gốc Việt?
    [Ngưng trích]

    Không cần phải chờ đến năm 2100 hay 2150, năm nay – nghĩa là năm 2011 – hiện có trên 1 tỉ 3 dân Người Tầu Gốc Việt, nói rõ hơn là Người Tầu Gốc Bách Việt, đang sinh sống tại Trung hoa lục địa, kể luôn những cộng đồng người Hoa ở China towns khắp nơi trên thế giới. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học của những nhà khảo cổ hẳn hoi, chứ không phải nói khơi khơi để thỏa mãn tính tự tôn dân tộc của dòng giống Bách Việt, mà Việt Nam là thủy tổ!! Nói cách khác, người Việt Nam chính là thủy tổ của người Tầu!!! Hoặc người Tầu đã từ bỏ nguồn gốc tổ tiên Bách Việt để tự mạo nhận mình là người Tầu!!!

    Nghe có vẻ hơi nghịch lý nhưng đó là kết quả nghiên cứu mới đây của một nhóm các nhà khảo cổ Âu châu. Căn cứ vào những bộ xương sọ đào được ở vùng đồng bằng sông Hồng và vùng trung nguyên phía bắc sông Dương tử lên đến tận biên giới Mông Cổ, cùng với thử nghiệm DNA trên những bộ xương tìm được thì giống Bách Việt vùng Đông Nam Á đã hiện hữu trước giống dân, mà Tầu gọi là dân Hán, rất lâu. Đó là nói theo nghiên cứu khoa học.

    Còn nói về sử sách thì cả sử Việt Nam hơn hai nghìn năm dưới thời Hồng Bàng và sử bên Tầu non ba nghìn năm dưới đời Nghiêu Thuấn, nhà Hạ, nhà Thương cho đến nhà … Xác, đều là cổ sử, loại sử “truyền miệng” trong dân gian, không còn được lưu giữ để có thể được dùng làm bằng chứng. Mà nếu có tài liệu nào chứng minh được giống dân Tầu thuộc dòng giống Bách Việt thì cũng đã bị mấy anh Tầu phù nuốt hết vào trong bụng để phi tang – nghề của mấy chàng!

    Người Việt Gốc (Bách) Việt ở VN hay hải ngoại chắc chẳng bao giờ chịu tự mạo nhận làm Người Tầu Gốc Việt đâu, trừ anh già hồ và dư đảng đang lẩn trốn ở Ba Làng. Nhưng được bao lâu?

    Lửa Tunisia, Ai Cập, Libya, … khắp Bắc Phi và Trung đông đã tràn về tới Đà Nẵng, Việt Nam với kỹ sư công nghệ thông tin Phạm Thành Sơn!! Và hoa nhài cũng đang nở rộ tại Trung quốc!!!

  3. Thưa Ông HHT,

    Theo chỗ tôi biết (và biết chắc chắn) rằng -thì -là mọi quân cán chính VNCH , từ anh binh nhì cho đến Ông Trung Tướng (các Ông ĐT đã cao chạy xa bay rồi),từ anh Nghĩa quân cho đến Ông Ấp Trưởng,Xã trưởng mà sau 30/4/75 ,ngây thơ ôm đầu”ra mắt” bọn cs,”ủ tờ” đủ 3 năm đều có đủ điều kiện để được chính phủ Huê kỳ cứu xét định cư vì lý do nhân đạo.(Đề nghị không dùng từ HO nữa).Vì vậy,nói theo Công Tử là từ cấp Chuẩn úy trở lên để được cứu xét là không chính xác. Nói thêm chỗ này một chút nữa,là dù có là quan 1,quan 2,quan 3 …. trở lên mà đi ủ tờ không phải lý do “tập trung cải tạo” (chẳn hạn bị ghép tội “phản động”,tức là tội “chống phá” để bị án tù 5 năm,10 năm hoặc 20 năm thì cũng bị CP Huê kỳ từ chối.
    Rất tiếc là CP Huê kỳ không quan tâm đến những Cựu Chiến Binh hoặc Thương Phế Binh VNCH,dù Họ đã từng sát cánh cùng người bạn đồng minh chống cs,nhưng đó là bổn phận của chúng ta,không phân biệt dân hay là lính,nếu chúng ta may mắn và còn biết ơn những người đã hy sinh tuổi thanh niên và máu xương trong hơn 20 năm vì TƯ DO,DÂN CHỦ ….của Miền Nam ,(cho dù còn nhiều hạn chế).
    Tôi xin ngã mũ chào Ông Phạm.Tôi đồng ý với Ông về sách lược và quyền lợi của CP Hoa Kỳ nên họ rút lui, không tiếp tục yểm trợ chúng ta để tiếp tục chống cs.Nhưng thưa Ông,Ông thù cs 1,mà thù HK 10 thì Ông cũng không khác người cs trước đây bao nhiêu;Ông có thấy hiện nay (lúc chuyện tình như mơ của Ông lên mạng) CSVN đã nài nỉ để được làm bạn với HK như thế nào không? và phải mất bao nhiêu năm để có mối quan hệ “lên tầm cao”như hiện nay?Ông có thấy Ông lạc lỏng chưa?

  4. Bác HHT không có gì phải lo lắng quá, nước VN mình đã tồn tại bên cạnh bọn chúng cả hơn 4000 năm rồi, nước ta có lúc suy lúc thịnh, nhưng ta vẫn còn nguyên là Việt Nam, rồi đây khi cái họa mất nước lộ rõ ra, dân ta sẽ đứng lên dành lại quyền hành và sẽ xử bọn mãi quốc cầu vinh đó.

  5. Đầu năm mới đọc bài của bác HHT, rồi nhìn lại đất nước mình, thấy rõ ràng tương lai dân tộc mình đen còn hơn mõm chó, kẻ đọc này thiệt là buồn thấy…mẹ.

  6. Kg ong Norman
    Trich “theo cho toi biet, va biet chac chan” ngung trich.
    Thuong khi noi “theo cho toi biet” thi nguoi noi to y de dat chu khong khang dinh chac chan, ong con them “va biet chac chan”, toi thay hoi ky ky, nhat la dieu “biet chac chan” cua ong lai sai
    Khong co chuyen ong binh nhi hay ong nghia quan nao bi hoc tap cai tao tap trung den 3 nam ca (toi dung chu hoc tap cai tao de phan biet voi o tu vi pham toi hinh su, va tap trung co nghia la bi giam suot thoi gian hoc tap trong 1 trai, khac voi chuyen hoc tap theo tung dot ngan han)
    Cung la ha si quan, nhung luc do o SG chi “hoc” co 3 ngay, nhung o cac tinh thi “hoc tap trung” tu 1 den vai thang. Toi “hoc” 3 ngay o SG, sau do duoc “khuyen khich” ve que de lao dong tang gia san xuat. Khi ve que, cu 10, 15 ngay lai di hoc chinh tri va lao dong cong ich vai ngay, trong thoi gian khoang hon 1 nam, roi het, the thoi.
    Toi la 1 ha si quan QLVNCH

  7. DI CHÚC số 2

    SỨC MẠNH THẬT VÀ SỨC MẠNH ẢO

    Nhà Chung, Tổng Giáo phận Huế, ngày 25-02-2011

    Ngày 02-02-2011 tôi đã viết Di Chúc số 1 xin gửi lại vài điều cần thiết cho Giáo hội, thân nhân và toàn thể Đồng bào Việt Nam (VN) thân yêu trong và ngoài Nước. Vì Di Chúc số 1 đã khá dài, có một điều cần thiết tôi chưa giải thích đầy đủ, nay theo ý kiến một số bằng hữu thân thiết, tôi xin ghi thêm điều rất hệ trọng này, bổ sung vào nỗ lực cuối cùng để hoàn thành trách nhiệm với Đồng bào, Dân tộc, Tổ quốc, Giáo hội và Thiên Chúa thay cho những điều sau ngày 15-3-2011 có thể bị vào lại nhà tù, tôi sẽ không còn cơ hội nói lên được nữa.

    Làm thế nào để chống Giặc Tàu và tiến hành giải thể chế độ CS tại VN thành công ?

    Trong Di Chúc số 1 tôi đã viết ở mục 3.1. “Dân tộc Việt Nam có truyền thống anh hùng hàng ngàn năm qua, nhưng sau hơn 60 năm độc tài toàn trị, CS đã phạm một tội ác cực kỳ to lớn là đã lấy đe dọa, khủng bố, đàn áp và dối gạt làm cho phần lớn Đồng bào VN hiện nay bị biến chất và thoái hóa, trở nên bạc nhược và rất bạc nhược. CS đã ranh ma thiết lập độc tài toàn trị dựa trên 2 vũ khí truyền đời : lừa dối và đe dọa, biến Toàn Dân VN thành nạn nhân nô lệ.” Và ở mục 3.1.1. “Phải lấy Sự Thật để thắng dối trá. Phải sưu tập và chuyển tải Sự Thật thật sâu rộng trong mọi giới Đồng bào trong và ngoài Nước. Nhưng Sự Thật phải được chuyển đến mọi người bằng nhân ái, cảm thông, ôn hòa, văn minh, lịch sự mới tác dụng tốt. Sự Thật được chuyển bằng hận thù cay độc thì không thể hữu hiệu.”

    Nay tôi xin giải thích thêm mục 3.1.2. “Phải lấy Nhận Thức, Trí Tuệ và Giác Ngộ để thắng sợ hãi…. Toàn Dân phải rủ bỏ sợ hãi, cùng đồng loạt đứng lên, lấy lại khí phách uy dũng của giòng máu Lạc Hồng.” Nhưng làm sao rủ bỏ được sợ hãi trước bộ máy đàn áp dày đặc của bạo quyền CSVN ?

    Điều cơ bản nhất và đầu tiên là phải nhận thức lại và quán triệt thật dứt khoát minh bạch : Đâu là sức mạnh thật và đâu là sức mạnh ảo ?

    Sức Mạnh Thật là Sự Thật, Lẽ Phải và Tình Thương. Sức mạnh ảo là Dối Trá, Thủ Đoạn, Ngụy Biện, Bạo Lực, Hận Thù, Bất Công, Đàn Áp… Kẻ nào/Tổ chức nào càng sử dụng sức mạnh thật thì càng mạnh thêm. Kẻ nào/Tổ chức nào càng sử dụng sức mạnh ảo thì càng run rẩy âu lo.

    Đáng tiếc là có người/tổ chức khi thấy đối phương sử dụng sức mạnh ảo thì bị cám dỗ và sa ngã cũng bắt chước sử dụng sức mạnh ảo : Dối Trá, Thủ Đoạn, Ngụy Biện, Bạo Lực, Hận Thù… Hậu quả tất yếu là chẳng những không thể thành công, trái lại ngày càng yếu nhược và suy tàn.

    Sức Mạnh Thật là Ánh Sáng. Sức mạnh ảo là Bóng Tối. Bóng Tối là thực tại ảo chỉ tạm thời có mặt nơi Ánh Sáng là thực tại thật chưa lan tới. Không bao giờ khoa học chế tạo được một chùm bóng tối đem chiếu vào ánh sáng làm ánh sáng lu mờ đi. Trái lại dù chỉ một tia ánh sáng cực nhỏ vẫn đủ sức xua tan bóng tối.

    Sức Mạnh Thật thuộc về Toàn Dân. Sức mạnh ảo tạm thời nằm trong tay bạo quyền. Bạo quyền càng đàn áp, càng dối lừa, càng thủ đoạn, càng bất công… thì càng chao đảo suy yếu. Toàn dân càng bước đi trong sự thật, lẽ phải, tình thương thì càng tiến lên, càng lớn mạnh, càng vững bền.

    “Trong đấu tranh, Người Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình (NCSDCHB) hằng ngày phải luôn thiền định – cầu nguyện cho đồng đội và đối phương cùng nhau thăng tiến vươn lên Chân-Thiện-Mỹ, nhờ đó biết luôn đấu tranh trong cao thượng, ung dung, ôn hòa cả trong ngôn ngữ : không la hét, mắng chửi, nguyền rủa, mạ lỵ, xúc phạm đối phương. NCSDCHB chân chính phải loại trừ mọi mầm mống phẩn uất, căm ghét, hận thù, muốn báo oán, trả đũa ra khỏi tâm trí mình, mới đủ sức mạnh cần thiết để đấu tranh cho Sự thật, Công lý, Tình thương, Tự do, Nhân phẩm, Nhân quyền, Dân chủ, Đa nguyên, Văn hóa, Văn minh, Đạo đức quân bình, lành mạnh, trong sáng và chân chính. Lòng căm ghét, hận thù sẽ làm NCSDCHB yếu đuối và không thể cảm hóa được đối phương, rất khó phát triển hàng ngũ… Bất cứ điều gì trung thực, ôn hòa và nhân ái nơi bản thân NCSDCHB cũng là vũ khí luôn làm đối phương bị động, lúng túng, run sợ và bất lực : lời nói, thơ văn, lời ca, tiếng hát, biểu ngữ, im lặng, điệu bộ, cười, khóc, ánh mắt, đột quỵ, nhà tù, chay tịnh, tuyệt thực, bệnh tật, bị thương, khước từ điều trị,… và tột đỉnh sức mạnh là cái chết hòa bình.” (Lặp lại Di Chúc số 1).

    Nếu NCSDCHB ảo tưởng tin theo lập luận mê lầm quen thuộc : “Chỉ có bạo lực mới chống lại được bạo lực”, không cưỡng lại được cám dỗ sử dụng sức mạnh ảo thì phải gặp 1 trong 3 hậu quả tác hại sau đây :

    + Không thể thành công : bất bạo động nửa vời, pha trộn quá nhiều bạo động, dù chỉ bạo động trong lời nói (hằn học, cay cú, độc ngôn, đâm chọc, cường điệu, mỉa mai, thô tục). Khi bị tấn công mà không thể kiềm chế, nhất là giới trẻ, liều lĩnh trả đũa, chấp nhận đi tù, là rơi vào bẫy đối phương. Khi các thành viên hung hăng bị bắt, thường sẽ chịu không nổi nhục hình hoặc bị lừa, chắc chắn sẽ sơ hở khai báo lung tung, làm cho phong trào suy yếu, có khi tan rã hẳn. Trái lại, chỉ có các CSDCHB ôn tồn trầm tĩnh, càng bị bắt vì chính nghĩa, phong trào sẽ càng mạnh mẽ dâng cao.

    + Thành công với nhiều đổ vỡ : Phải tốn nhiều công sức hàn gắn sửa chữa, có khi phải mất hàng trăm năm hoặc lâu hơn, do không bất bạo động tuyệt đối và toàn diện (cách mạng Pháp 1789…).

    + Không thành công chân chính thật sự : Chỉ đạt một số thành tích tạm bợ bề ngoài trước mắt, không thể ổn định vững bền, chắc chắn phát sinh những bất công, sai lầm, gian trá và các tội ác mới, vì liều lĩnh lấy sai lầm này chữa trị sai lầm kia, lấy tội ác mới lớn và nhiều hơn thay cho tội ác cũ, với cường độ gấp nhiều lần, rồi lấy tuyên truyền mà bịp lừa và bít lấp bằng thủ đoạn nuôi dưỡng sự sợ hãi và gian trá (phong trào CS quốc tế, nhất là tại VN và TC…).

    + Cần phải dứt khoát khẳng định và xác tín : Chỉ có Sức Mạnh Thật mới luôn dẫn đến thành công vững bền, không đổ vỡ, trong khoan dung, đạo đức, trung thực, nhân ái, công lý, thăng tiến, thăng hoa, văn hóa, văn minh, hòa bình mà thôi… Một sự thật, lẽ phải được nêu lên trong căm thù uất hận thì không còn là sự thật nguyên vẹn nữa, dễ bị méo mó mờ đục, lại phản cảm biến thành sự dối trá – bất công mới. (Lặp lại Di Chúc số 1).

    Vài minh họa chứng tỏ không nên sợ hãi hời hợt vu vơ :

    – Một nhóm học sinh/sinh viên vì biểu tình mà bị đuổi học thì có thể sợ hãi. Nhưng nếu hàng loạt học sinh/sinh viên cùng biểu tình thì không thể bị đuổi học được. Và cho dù có bị đuổi học vì lẽ phải thì cũng hiên ngang chấp nhận để lớn lên trong Sức Mạnh Thật. Phải nhận thức lại các giá trị chính yếu cần phải hy sinh tất cả để có (tự do, nhân phẩm…) so với các giá trị thứ yếu tạm thời (học hành, địa vị, việc làm…).

    – Khi người Dân bị yêu cầu trao “Sổ Hộ Khẩu/Thẻ Đỏ Quyền Sử Dụng Đất…” để kiểm tra/bổ sung… Dân phải buộc Công an/Cán bộ viết Giấy Cam kết là phải trả lại loại giấy tờ liên quan, làm 2 bản, Dân giữ 1 bản, để làm bằng chứng yêu cầu bạo quyền phải giữ lời đã cam kết.

    – Khi người Dân bị khám người/khám nhà/tịch thu giấy tờ/tài sản… hoặc bị yêu cầu một điều phi lý, bất công, Dân phải mạnh dạn buộc Công an/Cán bộ xuất trình Lệnh, lập Biên bản ít nhất là 2 bản, Dân giữ 1 bản, để có bằng chứng kiện ngược lại…

    + Khi người Dân ý thức được Sức Mạnh Thật nằm trong tay mình, còn bạo quyền CS chỉ nắm được sức mạnh ảo mà thôi, thì mọi sợ hãi đều tan biến và sẽ hiên ngang đồng loạt đứng lên biểu tình, xuống đường diễu hành, đào huyệt chôn táng vĩnh viễn Đại họa Dân tộc là CS. Cần dứt khoát khôn ngoan và kiên định : NCSDCHB chỉ dùng Sức Mạnh Thật, không sa ngã mon men một phút yếu lòng sử dụng bất cứ một hình thức sức mạnh ảo nào. Điều đương nhiên là chúng ta chắc chắn toàn thắng trong cuộc chiến Ánh Sáng – Bóng Tối này.

    + Cần phân biệt : Một cuộc chuyển đổi thể chế mà phải hi sinh hàng ngàn sinh mạng là giá chấp nhận được so với hàng triệu sinh mạng nếu sử dụng bạo lực. Chúng ta chấp nhận đổ máu nếu cần, nhưng không phải chúng ta chủ động gây ra mà do đối phương cố tình sử dụng sức mạnh ảo tạo nên.

    Xin cảm ơn mọi người thiện chí đã vui lòng đọc thêm Bản Di Chúc số 2 này. Kính chúc mọi người sớm được sống trong một Nước VN tự do, dân chủ, đa nguyên đa đảng, hòa bình, đạo đức và an vui. Trong nhà tù hay bất cứ trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn hiệp thông tiếp tục đấu tranh không ngừng.

    Nguyện xin Thiên Chúa tuôn đổ bao hồng ân xuống trên Nhân loại, Tổ quốc Việt Nam và tất cả chúng ta. Xin mọi người luôn cầu nguyện cho tôi. Hẹn gặp lại mọi người đông đủ trên Thiên đàng và trong cõi vĩnh hằng.

    Viết tại Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, ngày 25-02-2011

    Tù nhân Lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý

    Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế

    69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.

    • Để đáp lại bản hiệp thông ‘Lời cảm ơn và mời gọi lần thứ 16’ của Cha lý ngày 23/01/11.

      Áo Trắng TTLan 16/02/2011

      Anh đã thấy muôn vàn người Áo Trắng
      Cùng tiến lên, chân vững, biểu ngữ giăng,
      Người theo người, con số mãi gia tăng,
      Từ Huế cổ đến La Vang, Hà Tĩnh…

      Cha Lý là nguồn khát khao chân chính
      Của người dân trong cùm kẹp tù đày.
      Đòi Tự Do, Dân Chủ, đòi tương lai
      Cho dân khốn dưới gọng kềm Đảng trị…

      Anh cứ bước, bước đi theo Chân lý,
      Mọi ngả đường, mọi tôn giáo đồng tâm
      Để hét lên, dù Đảng bịt miệng câm
      Lòng phẫn nộ của dân bị bóc lột.

      Anh sẽ đứng cho đến giờ phút chót,
      Đảng phải tan, như bạo quyền phải tan,
      Bọn phản dân, bán nước, lũ bạo tàn,
      Ngày đền tội đã điểm, ngày Dân thắng.

      Anh cương quyết khoác lên người Áo Trắng.

  8. Tử Cấm Thành – Bản di chúc của một bạo chúa – Phần 5/6

    Dịch và Phụ đề Việt ngữ : Xuân Trường & Cẩm Vân.

    Rất hay.

    Kính mời.

  9. Tử Cấm Thành – Bản di chúc của một bạo chúa – Phần 6/6

    Dịch và Phụ đề Việt ngữ : Xuân Trường & Cẩm Vân.

    Rất hay.

    Kính mời.

  10. Tử Cấm Thành, Bac Kinh

  11. Văn hóa học: Cố Cung (Tử Cấm Thành) ở Bắc Kinh – 1

    Có thuyết minh với giọng miền Nam rất dễ thương và “khá truyền nhiễm”.

  12. Văn hóa học: Cố Cung (Tử Cấm Thành) ở Bắc Kinh – 2

    Có thuyết minh với giọng miền Nam rất dễ thương và “khá truyền nhiễm”. Không như giọng Bắc kỳ thời nay. Rất nặng và nhão như bột pha quá nhiều nước.

  13. http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/show/with/4514239546/

    Những hình ảnh xưa của xã hội Việt Nam.

    Kính mời.

    • Cám ơn Tiểu Đệ gởi cái link này rất nhiều hình thật xưa va hiếm, lại dưới dạng slide show nên cứ vừa uống trà vừa coi, cũng tiện. Có điều đôi khi thấy nhiều hình thểu não quá, trông dân ta ngaỳ xưa …nhếch nhải , nghèo khổ sao đâu!

      • Kính chị TV Nguyễn.

        Xin chị gọi em là tiểu đệ không viết hoa.

        Không có là em gọi chị bằng CÔ đó nha.

        Thương mến chị nhiều.

  14. Kính thưa quý bác. Con copy xong rồi post lên đây. Phòng khi có thằng nào là dân dzăng đen mã tấu nhảy dzô xí xọn, cho nó đọc. Con cam đoan nó đọc được con dám xút móng.

    * Cụ Lý lên núi Nùng

    * Nàng Lê lên núi lấy nuớc nấu lòng

    * Con lươn nó luồn qua luờn

    * Lúc nào lên núi lấy nứa về làm lán nên lưu ý nước lũ

    * Con cá mòi béo để gốc quéo cho mèo đói ăn

    * Chị nhặt rau rồi luộc, em nhặt rau luộc rồi

    * Đầu làng Bông, băm măng, bát mắm. Cuối làng Bông bát mắm, băm măng

    * Lúa nếp là lúa nếp làng. Lúa lên lớp lớp, lòng nàng lâng lâng

    * Luộc hột vịt lộn, luộc lộn hột vịt lạt, ăn lộn hột vịt lạt, luộc lại hột vịt lộn lại lộn hột vịt lạt

    • Tiểu đệ mến!
      Cái này mà tập nói hàng ngày rất tốt cho cơ …miệng, tiểu đệ à. Độ chục lần thì chắc khi nói chuyện trông có dzuyên đáo để đấy, miệng vặn một nơi, chữ phát âm một nẻo!
      Bao lớn rồi thì lo chuyện …nhớn đi nhe, lo chuyện cười …pể pụng có ngaỳ ..pụng pể trước đó!
      Trang nhà CTHĐ đấy nhé, chắc bộ thấy bác Hoàng hơi “bi quan” về thế sự nên kiếm chuyện cho bác cười …ruồi phải không?

    • Tui đọc còn muốn trật cuống họng nói chimấy thằng dzăng hô mã tấu. Mà dszui

  15. Tôi thương nhớ, kính trọng và mến yêu Cụ Tiên Điền bởi tấm lòng nhân ái của Cụ. Cụ Đã khóc cho thế nhân qua Chiêu hồn ca (Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh). Cụ đã khóc cho mọi loại, mọi hạng người từ cô gái lầu xanh cho đến những binh sĩ tử trận và cụ khóc vì :

    “Tình đồng cảm của tác giả đạt tới cả bọn hành khất, tới cả bọn tù phạm, và kỳ hơn, tới cả lũ hài nhi sơ sinh :

    Lấy ai bồng bế xót xa,
    U, ơ tiếng khóc thiết tha cõi lòng ! “

    Trích : THỜI KỲ THỊNH ĐẠT – NGUYỄN DU trong Việt Nam Văn Học Sử – Quyển II – Phạm Thế Ngũ – Anh Phương Ấn quán, trang 384

    Nay tôi càng cảm thấy kính trọng nơi cụ Hoàng Hải Thủy ở một tấm lòng nhân ái với tha nhân. Tôi chỉ muốn nói riêng tâm tư của mình về một giai đoạn lịch sử đầy đau thương.

    Giai đoạn này mà tôi là một trong những chứng nhân. Những gì tôi và biết bao người còn chút bình tĩnh để thấy được, để nhận xét được và để tan nát được trước lịch sử đen tối của nước nhà – Mùa Hè 1972 là khởi đầu cho tất cả những gì mà màn đêm phủ ập xuống đất nước Việt Nam mến yêu của chúng ta.

    Tôi không muốn nói những diễn tiến bi thảm mà Chiến sách của Mỹ đã áp đặt lên nhân dân Việt Nam và nước Việt Nam. Tất cả đã qua, những bi thương vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay và có thể chỉ còn kéo dài thêm ba hoặc bốn năm nữa. Bởi cộng sản phải suy sụp.

    Tôi không ngờ câu nói trước khi lâm chung của bạn tôi, một thương phế binh QLVNCH, nó cũng là lời nói phát xuất từ tâm khảm của tôi được Cụ Hoàng lưu tâm và đón nhận. Nó sẽ khiến cho những chiến sĩ vô danh đã tử tuất, người Việt gốc Hoa không đến nỗi phải tủi hờn nơi viễn cảnh.

    Thời gian qua, là một thời gian khó khăn nhất của cả đời tôi mà tôi phải trải qua, phải chấp nhận. Nay tạm thời lắng dịu. Tôi xin gửi nơi đây lời từ biệt quý vị thân hữu trên trang mạng này, những người phẫn nộ lên án chế độ cộng sản Việt Nam, một chế độ phi nhân và bán nước cho Tầu cộng. Chúng còn có thể sẵn sàng bán cho bất cứ ai nếu có lợi riêng cho chúng.

    Kính.

  16. Bác Pham(cholon) ới ời,
    Tại sao bác lại có lời từ biệt với dđ như vậy?? Bác bỏ bà con cô bác khâm mộ bác như vậy là không được đâu nhe. Mấy bữa thiếu bác trên dđ, ai cũng âu lo cho chị nhà nên thầm lặng ai cũng có lời cầu nguyện và nghĩ đến cả gia đình bác Pham(cholon) thật đáng kính. Bác đừng bỏ đàn em bơ vơ nhé. Còn dđ thì còn có dịp hội đàm cho vui, cho khuây khỏa, cho an ủi, cho chia sẻ cái vui cũng như cái buồn, cho quên đời bao đắng cay, cho chửi cộng cho bõ ghét…bác ạ. Đàn em cúi xin bác xét lại và đừng từ biệt nhá. Cho đàn em mong còn đọc lời bác viết cùng với các bác Backy54, bác VanToan, bác TâyĐộc vv…kỳ cựu ái mộ Bác HHT. Hứa với đàn em trở lại dđ nhé! Kính mến,

  17. Kinh chao tat ca moi nguoi tren dien dan nay.
    Doc bai viet cua bac hht va doc tat ca comment em (con)that la thich thu va hp. Thich thu vi duoc la nguoi vn de duoc doc nhung dong van chuong cua nguoi vn , thich thu thu nhi la duoc lam cong dan vnch de duoc nghe nhung loi noi,nhung suy nghi cua cac bac cha chu anh chi ve cai che do thoi nat cua cs ma em(con)kg biet dung cach nao de dien dat duoc.Nay vo tinh vao day em(con) nghi minh that la may man.
    Kinh chuc bac hht va tat ca moi nguoi tren dd luon duoc khoe manh.

Leave a comment