Như Tam Quốc Chí mở đầu với bài thơ “Kỷ Độ Tịch Dương Hồng” và kết thúc với ý Thơ “Kỷ Độ Tịch Dương Hồng,” Thiên Long Bát Bộ Luận Anh Hùng mở đầu và kết thúc với bài “Này Những Tình Oan, Những Thủy Chung”:
Thiên Long Bát Bộ luận anh hùng
Kỳ hiệp, quần ma kể chẳng cùng.
Ba mươi năm trước ai quên, nhớ
Những Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung?
Ai Hư Trúc Tử, ai Đồng Mỗ?
Đâu Thành Tây Hạ, Linh Thứu Cung?
Nhớ chăng Lục Mạch, Phù Sinh Tử?
Quên chưa Cực Ác với Cùng Hung?
Kìa Vương Ngọc Yến yêu Đoàn Dự,
Nọ chàng Đầu Sắt bắt băng trùng..
Chuyện xưa trong trí ta lần giở
Này những Tình Oan, những thủy chung.
Thơ làm năm 1980 ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn, Việt Nam Cộng Hòa. Lời bình viết năm 1996 ở Rừng Phong, Virginia Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích.
Viết thêm hôm nay một ngày Tháng 10/ 2015:
Tôi – HHT – gửi bài Viết ở Rừng Phong này đến các bạn 50 năm trước đọc Thiên Long Bát Bộ ở Sài Gòn.
Thiên Long kể lại chuyện xưa sau
Trọn tình, vẹn hiếu có A Châu…
A Châu, con gái của Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc, là nữ nhân vật có cuộc sống, và cuộc tình trong sáng nhất Thiên Long. Suốt một đời tôi quí trọng Tình Yêu, đề cao Tình Yêu, trái tim tôi bồi hồi trong những đêm buồn ghê gớm những năm 80 ở Thành Hồ, trằn trọc trong căn gác nhỏ, nghe tiếng thời gian chậm bước đi, tôi thao thức nhớ lại chuyện xưa, những cuộc tình Thiên Long Bát Bộ..
Chuyện xưa trong trí ta lần dở
Này những Tình Oan, những thủy chung…
Cuộc tình của A Châu làm tôi xúc động, con người A Châu làm tôi yêu mến. Nàng xuất hiện lần đầu trong nhà của Mộ Dung Công Tử ở Cô Tô Yến Tử Ổ.
Cảnh sắc Trung Quốc diễn tả trong những tiểu thuyết võ hiệp thật thơ mộng. Không cần đến tận nơi, chỉ nghe tả và tưởng tượng thôi cũng đã thấy đẹp tuyệt vời. Đôi khi cảnh sắc trong tưởng tượng của ta còn đẹp, hùng vĩ hay thơ mộng gấp nhiều lần cảnh thật. Như cảnh Cô Tô Yến Tử Ổ Thiên Long chẳng hạn.
Cô Tô Yến Tử Ổ Thiên Long là một hòn đảo nằm giữa Hồ Động Đình. Người ngoài muốn vào ra Cô Tô Yến Tử Ổ phải được bầy chim yến dẫn đường. Không có chim yến dẫn đường, tức không được chủ nhân Yến Tử Ổ cho phép, không ai có thể vào hay ra khỏi Cô Tô Yến Tử Ổ.
Cưu Ma Trí, Quốc Sư nước Thổ Phồn, một vương quốc láng giềng của vương quốc Đại Lý, trên đường đi khắp giang hồ để sưu tầm võ công thiên hạ — nói cho rõ và đúng hơn là đi đánh cướp võ công của thiên hạ đem về làm của mình. Khi đến Chùa Thiên Long đấu chưởng vớùi các vị cao tăng trong chùa, tình cờ gập Vương tử Đoàn Dự đang ở trong chùa thăm ông bác Bảo Định Đế tu hành, Cưu Ma Trí bắt Đoàn Dự đem đi theo. Cưu Ma Trí đến Cô Tô Yến Tử Ổ và vì vậy Đoàn Dự cũng đến Cô Tô Yến Tử Ổ. Không có chuyện gì đáng nói xẩy ra trong vụ Cưu Ma Trí đến Cô Tô Yến Tử Ổ: Lão chủ nhân Mộ Dung Bác đi vắng, Thiếu chủ Mộ Dung Phục cũng không có mặt tại nhà.
Đoàn Dự lạc vào nhà bếp nhà Mộ Dung, nơi chàng thấy vui vui vì có mấy em nữ tì trạc tuổi chàng — Một Bó lẻ Năm, Sáu Que chi đó — rồi chàng thấy một lão bà tóc trắng, chống gậy trúc, đi vào. Đoàn Dự cung kính chào hỏi lão bà và chàng ngạc nhiên khi thấy mấy em nữ tì nói chuyện nhủng nhẳng như đùa rỡn với lão bà.
Lão Bà Đoàn Dự gặp trong nhà bếp Môï Dung phủ là A Châu hoá trang. Nguyễn Tử Trúc Lâm phu nhân sinh hai chị em A Châu, A Tử nhưng không biết vì sao bà không để cô nào sống yên lành trong Tử Trúc Lâm với bà. Bà cho A Châu vào sống trong phủ Mộ Dung, cho A Tử theo Tinh Tú Phái, làm đồ đệ Lão Quái Đinh Xuân Thu. A Châu học được thuật hoá trang thần kỳ. Không những nàng chỉ có thể giả làm lão bà, nàng còn có thể giả làm đàn ông, giả làm bất cứ ai y như người đó. Thuật hoá trang này chẳng giúp ích gì được cho A Châu, nó còn góp phần vào việc làm cho nàng chết thảm.
Ngày tháng qua đi, những trang truyện Thiên Long Bát Bộ theo nhau mở đóng, ta gặp lại A Châu khi Kiều Phong nửa đêm lọt vào Chuà Thiếu Lâm.
Khi ấy Kiều Phong đã biết mình là người Khiết Đan, cha mẹ mình bị một nhóm võ lâm cao thủ Trung Hoa phục kích, tấn công giết chết ở biên giới. Ông thân của chàng là Tiêu Viễn Sơn, quí tộc Khiết Đan,võ nghệ cao cường, một mình đánh ngang tay với cả chục cao thủ Trung nguyên. Nhưng khi thấy bà vợ yêu của ông bị chết trong trận kịch đấu, Tiêu Viễn Sơn đau khổ ôm đứa con trai nhỏ mới mấy tháng nhẩy xuống vực tự sát. Trên đường rơi xuống bỗng ông thấy ông không có quyền giết con, ông ném đưá nhỏ trở lên cho nó sống. Các cao thủ võ lâm tấn công biết họ giết lầm — đúng ra họ bị kẻ cho tin lừa gạt — các ông hối hận. Đứa nhỏ sống sót được giao cho Phương Trượng chuà Thiếu Lâm đem về nuôi. Đứa nhỏ Khiết Đan ấy ba mươi năm sau là Kiều Phong, Bang Chủ Cái Bang, người có võ công lệch đất, nghiêng trời.
Bây giờ Kiều Phong không còn ảo tưởng gì về việc chàng là người Hán nhưng bị kẻ thù vu cáo là người Khiết Đan, chàng đã biết chàng là người Khiết Đan. Và chàng đi tìm kẻ được gọi mơ hồ là Thủ Lãnh Đại ca, vị cầm đầu đám cao thủ võ lâm Trung nguyên đã giết cha mẹ chàng.
Và máu đổ trên đường Kiều Phong đi. Nói cho đúng hơn máu đổ ở những nơi Kiều Phong định đến, sắp đến. Bí mật dầy đặc bao quanh người hùng cô đơn. Có một nhân vật đi trước Kiều Phong, nhân vật này giết những người Kiều Phong đến gập để hỏi về thân thế chàng và về tung tích Thủ Lãnh Đại ca.
Phương Trượng Thiếu Lâm đem đứa nhỏ Khiết Đan về giao cho vợ chồng Kiều công, ông bà giữ vườn rau của nhà chùa, nuôi làm con. Vì vậy đứa nhỏ mang họ Kiều và yên trí nó là con ông bà họ Kiều. Người nuôi Kiều Phong là ông bà họ Kiều, người truyền thụ võ công cho Kiều Phong là một vị tăng chuà Thiếu Lâm.
Kiều Phong về đến vưòn rau lúc nửa đêm. Căn nhà nhỏ tối om không ánh đèn. Chàng bồi hồi gọi:
— Gia gia ơi.. Má má ơi.. Con về đây..
Ông bà Kiều đã bị người đánh chết. Ông bà mới bị giết cách đây chưa lâu, kẻ sát nhân chỉ đi trước Kiều Phong ít bước. Chưa hết bàng hoàng, chưa kịp đau thương Kiều Phong đã nghe tiếng ngươi hô hoán bên ngoài:
– Tên ác tặc Khiết đan đã giết ông bà Kiều.. Đừng để nó chạy thoát..
Võ lâm kết tội Kiều Phong đã hạ sát một số cao thủ. Tất nhiên Kiều Phong bị oan. Chàng thoát khỏi vườn rau để lọt vào chùa Thiếu Lâm, đến thiền phòng của Sư phụ chàng.
Lại một đoạn diễn tả những sự việc sôi nổi biểu lộ tài năng kể chuyện của Kim Dung. Vừa vào thiền phòng của Sư phụ, Kiều Phong trông thoáng thấy bóng một đại hán. Người này có hình dáng, khuôn mặt hao hao giống chàng. Định thần nhìn lại Kiều Phong thấy đó chỉ là hình chàng phản chiếu trên tấm gương đồng lớn — Thời này người Ai Cập chưa tìm được cách lấy thủy tinh từ cát biển để đúc gương, làm kiến lão–Việc nhìn thấy bóng người thoáng qua không làm cho Kiều Phong thắc mắc lâu. Chàng không có thì giờ để thắc mắc. Sư phụ chàng vẫn tọa thiền trên bồ đoàn, nhưng ông đã bị trúng thương nặng. Ông sắp thở hơi cuối cùng. Kiều Phong không hiểu gì cả khi vị đại sư mở mắt nhìn thấy chàng, nhận ra chàng, Ông chỉ thốt lên mấy tiếng:
— Con đấy ư ? Hay lắm.. Tốt lắm..
Rồi Đại sư viên tịch. Kiều Phong thấy nét mặt ông phảng phất ý vui mừng. Chàng không cả thì giờ xem xét hiện trường, tìm biết về cái chết của Sư phụ. Các nhà sư Thiếu Lâm thấy trong chuà có biến đã tới bên ngoài thiền phòng. Nhìn quanh Kiều Phong thấy một chú tiểu bị điểm huyệt nằm trong một góc thiền phòng. Chú tiểu chỉ bị điểm huyệt nằm bất động nhưng không bất tỉnh. Nghĩ rằng chú có thể kể lại có những chuyện gì xẩy ra trong thiền phòng Kiều Phong vác chú lên vai, thoát ra khỏi chùa Thiếu Lâm.
Lại một đoạn Kim Dung diễn tả thật gay cấn, hấp dẫn. Không muốn đối chưởng với vác vị sư chùa Thiếu Lâm, Kiều Phong tìm đường chạy. Trên đường ra khỏi thiền phòng của Sư phụ, chàng lấy tấm gương bằng đồng che lên chú tiểu nằm trên vai chàng. Chàng nhẩy lên mái nhà. Một vị tăng đánh chàng một chưởng với trọn mười hai thành công lực. Chưởng đánh vào tấm gương trên vai chàng, phát lên một tiếng choang. Chưởng lực làm một đầu gối Kiều Phong khuỵu xuống, nhưng chàng mượn sức đẩy của chưởng, phóng mình bay qua tường chuà ra ngoài…
Vác chú tiểu trên vai Kiều Phong chạy đến một dòng suối. Trời tảng sáng. Các vị sư chùa Thiếu Lâm đuổi theo đã bị chàng bỏ rơi. Chàng đặt chú tiểu trên vai xuống bờ suối. Đến lúc này chàng mới biết chú tiểu bị trọng thương. Vì nằm trên vai chàng, chú lãnh trọn phát chưởng nhà chùa đánh theo chàng. May chú được tấm gương đồng che cho, nếu không chú đã chết ngắc vì những oan khiên của người khác.
Nhưng chú bị thương rất nặng, chú chết ngất và chú chỉ còn thoi thóp thở. Kiều Phong vội truyền nội lực cưú chú. Chàng cởi áo chú và ngạc nhiên khi thấy chú không phải là chú tiểu mà chú là cô tiểu. Nói rõ hơn chú là Thiếu nữ.
Chú tiểu chùa Thiếu Lâm có uyên nguyên với Kiều Bang Chủ tên chùa là Trí Thanh, tên nhà là A Châu, người đã xuất hiện trên sân khấu Thiên Long trong đoạn Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí đưa vào phủ Mộ Dung trong Cô Tô Yến Tử Ổ. Lần ấy Kim Dung chỉ cho nàng ra sân khấu thoáng qua để giới thiệu nàng. Đây là lúc A Châu chính thức bước vào tình sử Thiên Long.
Bên dòng suối khi trời mới bình minh, A Châu mở mắt và thấy Kiều Phong săn sóc, lo âu đến sự sống chết của nàng. Kim Dung ít cho nhân vật của ông nói những tiếng: “Em yêu anh.. Anh yêu em..” nhạt nhẽo và thực sự không nói lên được ký gì cả. Ông cho nhân vật của ông nói lên tình yêu của họ bằng việc làm. A Châu yêu Kiều Phong nhưng suốt thời gian ngắn ngủi nàng được sống bên chàng, không một lần ta nghe nàng nói :
“Anh ơi.. Em yêu anh..!”
— Cô nương là ai? Cô nương có thể cho tại hạ biết vì sao cô nương lại giả trang vào tu trong chuà Thiếu Lâm được không? Tại hạ thật có tội với cô nương. Vì tại hạ mà cô nương bị trúng thương. Xin cô nương đừng lo, cô nương không chết đâu, cô nương không chết được. Tại hạ sẽ đưa cô nương đi nhờ Thần Y cứu sống. Từ lúc này sự sống chết của cô nương sẽ là chuyện quan trọng nhất của tại hạ…
Đại hiệp oai phong, khôi vĩ, đường đường hảo hán, danh trấn giang hồ.. Đại hiệp nói những câu như dzậy mí em thì Đại hiệp giết em dzồi còn gì! Em mới mười bẩy tuổi, em còn nguyên bản — thuật ngữ quảng cáo hàng họ Phú Lang Sa là “Tú nớp, ja-me cát-xê” — Em chưa yêu ai, em chưa biết yêu là gì, em chưa biết hơi trai đừng nói gì đến hơi đàn ông.. Gặp trường hợp này em không yêu, em không mê Đại hiệp mới là chuyện lạ, em yêu, em mết Đại hiệp là chuyện thuờng tình, chuyện tự nhiên.
Và A Châu yêu Kiều Phong. Chàng lập tức đưa nàng đi chữa thương. Nàng bị thương rất nặng. Nàng còn sống được chỉ là nhờ Kiều Phong ngày ngày truyền công lực cho nàng. Nhưng chàng không thể cứ truyền công lực giữ cho nàng khỏi chết như thế mãi. Trên cõi đời này chỉ có một người có thể cứu mạng nàng. Người đó là Tiết Thần Y — tên cúng cơm là Tiết Mộ Hoa — Thầy lang họ Tiết trị bệnh thần sầu đến nỗi được giang hồ tôn xưng là Thần Y.
Kiều Phong tìm một chiếc xe ngựa, để A Châu trong xe, chàng cầm cương, đi về điạ phương của Tiết Thần Y. Họ ngày đi, đêm nghỉ ở quán trọ bên đường thiên lý. Những tác giả tiểu thuyết võ hiệp thường bị chế nhạo là luôn luôn cho nhân vật của mình ra đi không mang va-ly, cả quần áo cũng không thấy cắp nách, tức là đi chân tay không, không hành lý, không tiền.. Mà không phải là đi gần, đi xa vạn dậm, đi khắp trung nguyên, tức là đi ngang, đi dọc, đi lên, đi xuống khắp lãnh thổ Ba Tầu. Khi viết đến đoạn Kiều Phong đưa A Châu đi chữa thương, chắc Kim Dung nhớ đến lời phê bình trên nên ông tả Kiều Phong khi cần tiền, chờ đêm xuống, vào Kho Bạc Nhà Nước ở địa phương, bẻ khóa lấy bạc tiêu dùng. Đại hiệp cũng đạo chích như ai!
Có thể đây là những ngày sung sướng nhất của A Châu kể từ lúc nàng mở mắt nhìn thấy Kiều Phong bên bờ suối. Trên đường đi, nằm yên ổn trong xe, nàng nói chuyện với chàng. Nàng không nói cho chàng biết nàng là người của nhà Mộ Dung, được phái vào Chuà Thiếu Lâm để lấy trộm bí kíp võ công cất trong Tàng Kinh Các nhà chuà. Kiều Phong cũng không hỏi kỹ về lý lịch của nàng. Chàng còn nhiều chuyện bận tâm khác.
Trên đường họ đi đến nhà Tiết Thần Y nhiều nhân vật võ lâm đủ các bang phái cũng kéo nhau đi. Quần hùng đến Tụ Hiền Trang theo lời mời của Du Thị Song Hùng để dự đại hội bàn chuyện trừ diệt tên ác tặc Kiều Phong, tên Khiết Đan từng giữ chức Bang Trưởng Cái Bang sau khi bị lột mặt nạ đã giết quá nhiều nhân vật võ lâm, gây quá nhiều nợ máu. Kiều Phong biết chuyện ấy. Chàng đưa A Châu đi thẳng đến Tụ Hiền Trang vì chàng biết chàng sẽ gập Tiết Thần Y ở đấy.
Kiều Bang Chủ giao tình với Thần Y rất hậu. Nay hai người ở hai phe đối nghịch nhau nhưng Thần Y vẫn nhận lời yêu cầu của cố nhân một lần cuối. Ông nhận chữa thương cho A Châu. Kiều Phong giao nàng cho Thần Y. Chàng nói với nàng lời cuối:
— Thần Y đã nhận lời cứu cô nương, cô nương sẽ sống, Kiều mỗ yên lòng. Xin vĩnh biệt cô nương..
Khi nói với A Châu như thế Kiều Phong nghĩ chàng sẽ chẳng bao giờ gập lại nàng. Nhưng con người ta đâu có thể thoát ra khỏi lưới tình và định mệnh một cách khơi khơi, dễ dàng như dzậy được. Định mệnh an bài. Bao giờ định mệnh cũng an bài.., và khi định mệnh đã an bài, không ai có thể thoát…
o O o
Thiên Long Bát Bộ có nhiều trận kịch đấu trời long, đất lở. Trận kịch đấu ở Tụ Hiền Trang giữa một bên là Kiều Phong, một bên là quần hùng, là trận kịch đấu dữ dội, bi hùng tráng nhất Thiên Long.
Kiều Phong biết quần hùng tụ họp ở Tụ Hiền Trang để bàn chuyện giết chàng. Nhiều người trong số họ có người thân, sư huynh, sư đệ bị nhân vật bí mật giết chết trong thời gian gần đây — tất cả mọi người đều cho rằng nhân vật bí mật ấy là Kiều Phong — nên họ căm phẫn đến cái độ thấy Kiều Phong là phải giết để trả thù. Kiều Phong biết như thế, giao A Châu cho Tiết Thần Y xong, chàng đi thẳng đến Tụ Hiền Trang.
Không ai ngờ tên ác tặc lại dám ngang nhiên đến ngay nơi hội họp của quần hùng ở Tụ Hiền Trang. Người người căm hận chỉ muốn ăn gan, uống máu tên ác tặc nhưng khi Kiều Phong đến nơi, người ta không xô ra đánh chém loạn cào cào châu chấu ngay. Quân tử Tầu khi giết nhau cũng vẫn hành xử theo lối quân tử Tầu. Người ta vẫn lễ độ với nhau, vẫn mời nhau uống rượu trước khi giết nhau.
— Kiều mỗ mời các vị uống với Kiều mỗ một bát rượu đoạn tình, đoạn nghĩa…
Quân tử Tầu dùng rượu trong mọi trường hợp, mọi nơi, mọi lúc, mọi chuyện, mọi tình cảnh. Thi đỗ rượu, thi trượt rượu, đám cưới rượu, đám ma rượu. buồn rượu, vui rượu, gập nhau rượu, xa nhau rượu. thắng rượu, thua rượu, kết ngãi — tức kết bạn — rượu, đoạn ngãi — không còn bạn bè gì nữa — rượu… Và họ — ít nhất cũng là quần hùng trong tiểu thuyết võ hiệp — uống rượu bằng bát chứ không bằng ly, chén.
Và cứ như thế Kiều Phong mời những người bạn cũ uống rượu của anh em Du Thị Song Hùng. Chàng uống với mỗi ông bạn giang hồ một bát. Nhưng..không khí trầm trần theo đúng lễ nghi, đôi bên đối xử với nhau lịch sự, ôn hoà. Cũng có thể khi uống với nhau chán rồi người ta nói:
— Thôi.. Nghỉ uống. Ta đánh nhau.. Mời túc hạ xuất chưởng…
Viết như vậy cũng được nhưng viết như vậy là không có hay, là không có nghệ thuật. Phải có một động tác, một sự kiện nào đó làm hiện trường đột biến, từ hoà nhã chuyển sang dữ dội, để người ta có thể đang uống rượu với nhau quay ra đánh giết nhau. Kim Dung biết sự cần thiết ấy và ông đã làm sân khấu đột biến bằng cách cho một anh Ma giáo không giống ai ngất ngưởng bước ra đòi uồng rượu tay đôi với Kiều Phong.
Anh Ma giáo này chỉ có cái thuật gọi là phúc ngữ: nói bằng bụng. Thuật này tiếng Phú Lang Sa là ventriloque và là thuật chuyên để làm xiếc chứ không dùng được việc gì khác. Những người có thuật phúc ngữ thường làm xiếc với một hình nộm, khán giả tưởng như hình nộm nói cười nhưng thật ra là người làm xiếc nói cười mà không mở miệng.
Anh Ma giáo mặt mũi đen đủi, hình dung xấu xí, người không ra người, ngợm không ra ngợm, ngất ngưởng bước đến trước mặt Kiều Phong:
— Kiều Phong.. Ta uống với ngươi bát rượu chấm dứt tình bạn..
Trừng mắt nhìn gã, Kiều Phong quát lên:
— Ai là bạn của mày..?
Chàng đập mạnh bát rượu trên tay xuống đất.
Choang.!
Bát rượu vỡ. Cùng với tiếng choang Kiều Phong đánh ngay một chưởng vào ngực anh Ma giáo.Tội nghiệp. Chưa được uống tí rượu nào anh Ma giáo hộc máu chết ngay tại chỗ.
Và thế là người ta xông vào đánh nhau…
o O o
Vì mặc cảm là người Khiết Đan. Kiều Phong chỉ dùng cái gọi là Thái Tổ Trường Quyền đấu với quần hùng. Thời đó đang là triều nhà Tống. Thái Tổ đây là Tống Thái Tổ. Triệu Khuông Dẫn dùng võ nghệ dành được thiên hạ, lập lên nhà Tống, để lại cho đời quyền phổ mang tên Thái Tổ Trường Quyền. Những chiêu thức trong quyền phổ đều rất thường, không có gì bí hiểm, ác độc nhưng Kiều Phong có nội lực thâm hậu, chàng xử dụng những chiêu thức rất thường này mà quần hùng không áp đảo được chàng. Dùng Thái Tổ Trường Quyền, Kiều Phong có ý nói với quần hùng :
”Các người thù ta vì ta không phải là người Hán như các người. Nhưng ta chống lại các người không bằng võ công nào khác ngoài võ công của chính các người..”
Rồi máu chẩy, thịt rơi, người chết, trận kịch đấu trở thành ác liệt. Say máu, người ta trở thành điên loạn. Kiều Phong cũng phát điên. Chàng giết người không nương tay. Như đã nói: Đây là trận đấu mưa máu, gió tanh dữ dội nhất Thiên Long.
Kiều Phong, dù có nội lực kinh hồn, võ công lệch đất, bản lĩnh nghiêng trời, kể cả chàng có là Siêu nhân, cũng không thể đánh mãi với quần hùng. Trước sau, sớm muộn gì chàng cũng phải chết nếu chàng cứ một mình kịch chiến với quần hùng như thế trong Tụ Hiền Trang. Lại một trận kịch đấu mưa máu, gió tanh chính hiệu được Kim Dung diễn tả. Sự kiện bất ngờ xẩy đến người đọc không thể đoán trước được. Khi Kiều Phong đuối sức, mắt chàng đã mờ đi, những chiêu thức của chàng trở thành loạng quạng, Đại Hán Áo Nâu bí mật xuất hiện cứu chàng.
Đại hán ở trên ngọn cây tùng bên sân Tụ Hiền Trang tự bao giờ không ai biết. Đại hán tung dây cuốn vào đỉnh cột cờ giữa sân Tụ Hiền Trang, nắm dây bay xuống. Đại hán quét một vòng đường dây làm những cao thủ đang bao vây Kiều Phong lăn đùng, ngã ngửa. Đại hán ôm sốc Kiều Phong theo đường dây bay lên rồi đặt Kiều Phong nằm trên vai, thi triển khinh công chạy đi…
Khi đó Kiều Phong chưa ngất hẳn. Nằm trên vai người bí mật chàng biết mình được đưa lên núi. Rồi chàng được đặt cho đứng trước cửa động trên núi cao. Đại hán đứng trước mặt chàng. Người bí mật bận y phục nâu, mặt có khăn bịt kín nên Kiều Phong không biết tuổc tác của ân nhân, chàng chỉ thấy ánh mắt ông lóng lánh sáng trong hai lỗ mắt trên khăn bịt mặt, ông ta có khổ người cao lớn cũng như chàng.
— Thật ngốc dại.. Có võ công lệch đất, nghiêng trời mà đi chết vì một đưá con gái…
Đấy là lời Đại hán mắng Kiều Phong. Ông đưa tay lên tát chàng. Kiều Phong không né tránh cũng không đánh lại. Chàng chỉ đưa ngón tay trỏ lên đỡ. Nếu Đại hán tát chàng, bàn tay ông sẽ trúng chỉ của chàng và ông ta sẽ bị thương trước. Đại hán chuyển thế bàn tay của ông, Kiều Phong chuyển thế ngón tay của chàng.. Sau cả chục lần như thế Đại hán vẫn không tát được Kiều Phong. Cuối cùng ông ta buông tay, nhìn Kiều Phong, thở dài rồi quay mình nhẩy xuống núi.
Trong động có trữ thức ăn, có rượu, Kiều Phong ở lại đây dưỡng thương…
Rồi một hay hai, ba mùa lá rụng, hoa rơi, trăng soi, suối chẩy trên những trang tình sử Thiên Long — như đã nói yếu tố thời gian, không gian không được coi là quan trọng hay được ước lượng đúng trong tiểu thuyết võ hiệp Tầu — người đọc Thiên Long gập lại Kiều Phong khi chàng lên Nhạn Môn Quan ở biên giới thăm viếng chỗ cha mẹ chàng bị thảm tử ngày xưa.
Nhạn Môn Quan: Cưả quan chim nhạn, cửa thông sang nước Khiết Đan. Năm năm khi muà đông tới, chim nhạn ở miền Bắc tránh cái lạnh, bay xuống miền Nam ấm áp hơn, không thể bay vượt qua những đỉnh núi cao, phải bay vào con đường giữa hai thành núi có cửa quan này. Vì vậy cưả được gọi là Cửa Nhạn.
Đứng ở nơi cha mẹ chàng bị chết năm xưa Kiều Phong bồi hồi tưởng tượng trận phục kích tấn công. Rồi chàng nghe tiếng người gọi:
— Đại ca.. Đại ca..
Thiếu nữ chạy tới. Chàng nhận ra nàng là A Châu, nàng còn sống. Không những nàng chỉ còn sống suông mà thôi, nàng còn sống mạnh khỏe, hồng hào, tươi tắn. Hai người xúc động nhìn nhau:
— Thần Y đã cứu sống cô nương, tại hạ rất mừng…
Tại sao cô nương A Châu lại có mặt ở nơi biên ải khỉ ho, cò gáy, chó ăn đá, gà ăn muối này? Cô nương có mặt ở đây không phải là sự tình cờ, cô nương cố tình đến đây chờ đợi người cô yêu.
— Em biết thế nào Đại ca cũng đến đây nên em tới trước, em đợi Đại ca..
Việc cho A Châu từ Hoa Nam một mình lên Nhạn Môn Quan chờ gập lại Kiều Phong là một điểm yếu trong tiểu thuyết võ hiệp Tầu nói chung, trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung nói riêng. Đã viết rồi song để cho rõ hơn, nay viết lại: Vì đất nước quá rộng, vì có lịch sử quá dài, những người viết tiểu thuyết Trung Hoa có phản ứng ngược. Họ coi những nơi cách xa nhau vạn dậm như ở liền nhau, coi ba, bốn trăm năm ngắn gọn như giấc ngủ trưa.
Trong Ỷ Thiên Kiếm — Đồ Long Đao, Kim Dung cho Vô Kỵ 10 tuổi, dắt Dương Bất Hối, 8 tuổi, đi từ Hồ Điệp Cốc ở đâu đó trong vùng Hoa Nam — phiá Nam nước Tầu, thuộc địa phận Quảng Toóng, Phước Kiến, Phước Ong chi đó, đi lên tận Núi Côn Luân ở biên giới Tân Cương, hay Tây Tạng, Ấn độ cũng chi đó, để tìm cha của Bất Hối là Dương Tiêu, Tả Sứ Minh Giáo. Cảnh Vô Kỵ, Bất Hối gập Dương Tiêu trong rừng phong là một cảnh gợi cảm. Dương Tả Sứ người cao như khổ người ông Mai Thảo, mặt cũng dài và lạnh như mặt ông Mai Thảo, bận y phục toàn trắng, đôi mão trắng, đi hài trắng. Khi được Vô Kỵ báo cho biết mẹ của Bất Hối, cô Kỷ Hiểu Phù, đã bị bà Diệt Tuyệt Sư Thái giết chết, Dương Tả Sứ ngửa mặt lên trời, hú một tiếng dài. Lá vàng rơi lả tả…
Đẹp thì có đẹp nhưng chẳng cần phải xét nét ta cũng thấy cho hai đứa nhỏ dưới mười tuổi dắt nhau đi — đi bộ — xa không phải ngàn dặm mà là vạn dặm — mười ngàn dặm — là chuyện không thể nào xẩy ra được. Cũng như chuyện A Châu lên Nhạn Môn Quan chờ đợi Kiều Phong.
Đó là một trong vài ba nhược điểm của tiểu thuyết Kim Dung. Tác giả có cả trăm ưu điểm, trăm cái hay, ta hưởng những cái hay của Người, ta phải chấp nhận vài cái dở của Người.
A Châu đề nghị nàng cùng với Kiều Phong đi tìm tung tích Thủ Lãnh Đại ca. Vì quá cô đơn và cần có tình người Kiều Phong nhận lời. Từ Nhạn Môn Quan chàng và nàng đi trở về trung thổ.
Tôi không nhớ A Châu tỏ tình với Kiều Phong như thế nào, lúc nào, ở đâu? Tôi cũng không nhớ Kiều Phong biết A Châu yêu chàng lúc nào. Dường như Tình Yêu — Tình Yêu viết hoa cả bẩy chữ, hoa luôn dấu huyền, dấu mũ — Tình Yêu đến với họ thật êm và thật tự nhiên. Họ yêu nhau mà không cần nói là họ yêu nhau. Lần thứ nhất trong đời Kiều Đại hiệp, Kiều Bang chủ, có một phụ nữ ở gần. Với A Châu là Tình Yêu, với Kiều Phong — có lẽ — chưa hẳn là Tình Yêu mà chỉ là Tình Mến, Tình Nghĩa, Tình Người.
A Châu có linh tính nên luôn luôn sợ hãi trước hiện tại đầy bất trắc, nàng mơ được có một cuộc sống bình yên với người yêu. Nhiều lần nàng nói với Kiều Phong:
— Đại ca ơi.. Em sợ.. Em thấy giang hồ cứ ân oán, hận thù chém giết nhau mãi, không bao giờ ngừng. Em muốn chúng ta thoát ra khỏi cuộc ân oán triền miên ấy. Em muốn khi Đại ca trả xong được thù nhà, Đại ca đưa em về bên kia Nhạn Môn Quan. Chúng ta sẽ sống với nhau trên vùng tuyết trắng mênh mông ấy. Chúng ta vui với gió trăng, ta săn hươu, đuổi thỏ. Suốt đời ta sống yên lành bên nhau… Đại ca hứa với em nhé..
Mộng nhỏ thôi ! Đại ca hưá nhưng cuộc đời đầy những oan khiên tàn nhẫn không cho người thiếu nữ hiền hậu nhất Thiên Long được sống giấc mộng nhỏ của nàng. Vì muốn giúp người yêu tìm ra được kẻ thù, vì có tài hoá trang, A Châu bầy ra mưu nàng giả làm Bạch Thế Kính, Trưởng Lão Cái Bang, hóa trang cho Kiều Phong là gia nhân theo hầu, đến nhà Mã phu nhân, vợ goá Mã Đại Nguyên Phó Bang Chủ Cái Bang, hỏi dò bà này về vị Thủ Lãnh Đại Ca. Mưu lừa của A Châu làm sao đánh lừa được nàng Sương Phụ Đa Tình — Đa Dâm — Đa Đủ Thứ của Tình Sử Thiên Long. Mã phu nhân giả vờ bị lưà, tiết lộ vị Thủ Lãnh Đại Ca là.. Đoàn Nam Vương Đoàn Chính Thuần, cha của A Châu.
A Châu lặng người. Nàng bị đẩy vào tình trạng bên hiếu, bên tình. Nói rõ hơn nàng bắt buộc phải chọn một là hiếu, một là tình, không thể lửng lơ con cá tai tượng có trọn vẹn cả hai. Trường hợp bắc cân Tình, Hiếu này chỉ xẩy đến với những phụ nữ sống trước đây hai, ba, bốn, năm, sáu, bẩy trăm năm. Phụ nữ thời gọi là Thế Kỷ Hai Mươi trần ai khoai hà này không phải bận trí, mất công, théc méc về việc phải chọn lựa. Khi cần chọn lựa, các nàng chọn liền tù tì tút suỵt. Và thường là các nàng chọn bên Tình, các nàng lơ bên Hiếu.
A Châu không thể ngăn người yêu trả thù, trước đó nàng không nói — vì thấy không cần phải nói — Đoàn Chính Thuần là cha nàng. Bây giờ nàng lại càng không thể nói. Kiều Phong không biết Đoàn Chính Thuần là cha A Châu. Nay được biết họ Đoàn là Thủ Lãnh Đại Ca, chàng đi tìm họ Đoàn để đòi nợ máu.
A Châu cũng không thể để cha nàng phải chết dưới tay người nàng yêu. Nhưng.. làm sao được! Nàng giải quyết bằng cách hy sinh. Nàng hoá trang thành Đoàn Chính Thuần, nửa đêm đến bên cầu đá xanh, đấu chưởng với Kiều Phong.
Một cảnh đặc biệt tiểu thuyết võ hiệp. Đêm mưa tầm tã, sấm rền, chớp nhoáng, hai cao thủ gập nhau thanh toán nợ máu. Tất nhiên Kiều Phong không biết A Châu giả làm Đoàn Chính Thuần. Đã biết nhà họ Đoàn Đaị Lý có võ công Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, Kiều Phong xuất chưởng với tất cả công lực của chàng. Chưởng đánh vào ngực A Châu. Kiều Phong ngạc nhiên khi thấy Đoàn Chính Thuần không đỡ gạt, không tránh né, cũng không thấy có tí síu công lực nào hộ thân. Biết có chuyện gì đó chàng thu chưởng lại. Nhưng.. không còn kịp nữa…
Không còn kịp nữa bởi vì Định Mệnh đã an bài.. A Châu, dưới vóc dáng Đoàn Chính Thuần, đứng trên cầu đá xanh, trúng chưởng bay xuống bãi cỏ chân cầu, Kiều Phong bay theo ôm nàng lên. Nàng nói nàng là con gái Đoàn Chính Thuần, nàng xin chàng tha chết cho cha nàng, nàng đã chết thay ông. Nàng nhắc lại ước mơ:
“Đại ca ơi.. Em sợ giang hồ ân oán, mưa máu, gió tanh. Em muốn Đại ca đưa em về bên kia Nhạn Môn Quan. Chúng ta sống, chúng ta yêu nhau suốt đời ở đấy. Chúng ta có nhau, có gió, có trăng, có tự do.. Ta sẽ săn hươu, đuổi thỏ…”
Ba mươi mấy mùa thu vàng đi qua cuộc đời kể từ những đêm xưa tôi đọc Thiên Long Bát Bộ. Năm ấy cuộc tình và cuộc đời A Châu làm tôi xúc động. Năm nay sau cuộc biển dâu muời chìm, hai mươi nổi, ba mươi mấy cái lênh đênh, sau những ngày, những tháng năm ngồi rù gãi háng trong những nhà tù, những ngày đêm khắc khoải, tủi nhục, vô vọng sống trong thành phố thương yêu đầy cờ đỏ, sao vàng, hình Ông Hồ, khi mái tóc phong sương, những vết roi đời in hằn trên khuôn mặt não nề, ngồi bình an ở Rừng Phong sửa lại những trang bản thảo này để chuẩn bị xuất bản, cuộc tình và cuộc đời A Châu một lần nữa lại làm tôi bồi hồi cảm khái. Tôi nhớ lại những đêm buồn ghê gớm trong căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn, trong một đêm buồn ấy tôi làm thơ vinh danh người thiếu nữ tôi yêu, tôi thương nhất Thiên Long:
A CHÂU
Thiên Long kể lại chuyện xưa sau
Trọn tình, vẹn hiếu có A Châu.
Hiếu để trên đầu, Tình ở ngực.
Chữ Tình Em nặng, Hiếu Em sâu.
Cô Tô mắt ngọc trong như nước,
Yến Tử Tình Châu trắng một mầu.
Ông già, bà lão Em chơi kịch,
Em vẫn cười vui, có khổ đâu.
Thiếu Lâm trúng chưởng, Em gần tịch,
Đời Em từ ấy biết thương đau.
Võ lâm, nưa máu, gió tanh hôi,
Hổ đấu, long tranh mãi chẳng thôi.
Em sợ giang hồ ân oán mãi,
Đưa Em về ải, Đại ca ơi !
Nhạn Môn ngày gió, đêm trăng dãi,
Săn hươu, đuổi thỏ, chúng ta chơi.
Mộng nhỏ nhưng đời oan với trái,
Em với Tình Em nát tả tơi !
Ngàn năm ải vắng trăng soi
Này hươu, này thỏ… đợi người, người đâu ?
Thiên Long tưởng nhớ A Châu
Lòng ta lẻ một nét sầu, Em ơi …
o O o
Cảnh tuyệt đẹp và bi tráng. Đêm thu mưa gió, dưới chân cây cầu đá — cầu đá nhưng không phải cầu đá thường mà là cầu đá xanh — chàng Đại hiệp ôm nàng Trinh nữ sắp chết. Nàng chết vì chàng. Nàng nói nàng muốn chàng đưa nàng về bên kia Nhạn Môn Quan. Ở đấy có gió trăng và Tình Yêu, ở đấy không có những trận mưa máu, gió tanh, giang hồ ân oán. Ở đấy họ sẽ yêu thương nhau, sẽ sống với nhau mãi mãi…Mộng ước đúng là nhỏ thôi. Chàng đưa nàng về Nhạn Môn Quan quá dễ. Nhưng dễ đây là dễ với ngày hôm qua, với sáng nay, trưa nay, không còn dễ với lúc này, không còn dễ trong đêm nay. Bởi vì nàng sắp chết. Bây giờ dù có võ công lệch đất, nghiêng trời chàng cũng không thể giữ cho nàng đừng chết.
Đại hiệp khóc. Không những Đại hiệp chỉ khóc mà thôi, Đại hiệp còn khóc mùi mẫn, khóc nghẹn ngào, khóc nức nở, khóc vỡ tim, khóc đứt ruột. Khi đau thương Đại hiệp cũng khóc như ai. Đừng nói gì đến Đại hiệp, khi đau thương thì đến Đại vương uy danh cái thế cũng khóc. Bằng chứng:
Ô Giang vó ngựa ngập ngừng
Cùng đường Hạng Vũ, đoạn trường Ngu Cơ…
Anh hùng lệ cũng sa mưa..
Hạng Vũ khóc khi Ngu Cơ tự sát.
A Châu tắt thở rồi, Kiều Phong ôm nàng ngồi dưới mưa khóc mãi. Chàng không nỡ rời nàng. Nhưng khi chàng chôn nàng, chàng dùng tay bới đất thật nhanh, chôn nàng bên bờ dòng sông trắng. Lấp đất xong chàng bỏ đi luôn. Kim Dung diễn tả hành động của Kiều Phong không những chỉ hay mà còn thật đúng. Người đa tình nhiều lúc hành xử giống như người vô tình. Người yêu đã chết, trái tim đã vỡ, cuộc tình đã đứt, thương khóc đã xong. Đi thôi, có còn gì đâu mà quyến luyến…
Đến đây ta làm một đọan trở về quá khứ, tức là rời hiện tại để trở lại với sự việc xẩy ra trước đó — thuật ngữ xi-la-ma gọi việc này là flashback — có sự théc méc:” Nếu Đoàn chính Thuần không phải là Thủ Lãnh Đại ca, tại sao ông ta lại nhận ông là Thủ Lãnh Đại ca và chịu để cho Kiều Phong đòi nợ máu? Tức là nhận lời đêm ấy ra Thạch Thanh Kiều đấu chưởng — Thanh toán OK Corral — với Kiều Phong?”
Đoàn Nam Vương — đúng ra — hổng có nhận mình là Thủ Lãnh Đại ca. Đôi bên có sự hiểu lầm. Người đòi nợ không nói rõ về khoản nợ, người mắc nợ cũng không hỏi rõ về nơ nần của mình. Đại khái nội vụ xẩy ra như vầy:
Kiều Phong gập Đoàn Chính Thuần ở đâu đó. Đôi bên thi lễ vv và vv… Kiều Phong nói:
— Ba mươi năm xưa ông đã làm một việc tồi bại ở Nhạn Môn Quan…
Lời kết tội mơ hồ đến cái độ có thể nói là mơ hồ nhất trên cõi đời đầy những chuyện mơ hồ này. Đoàn Chính Thuần, như đã nói, là Vua Playboy cơm hàng, cháo chợ, vợ mười phương, con rơi, con vãi loạn trên đường.. Vô phúc cho Đoàn Chính Thuần, đúng ra là không may cho A Châu, bị kết tội Đoàn Chính Thuần nhớ lại ba mươi mùa lệ chi chín đỏ trước đây ông ta có làm một chuyện bị gọi là “tồi bại” ở Nhạn Môn Quan. Kim Dung không viết rõ cái gọi là “việc tồi bại” ấy của Đoàn Chính Thuần là việc gì. Song người đọc chẳng cần tinh tế chi mấy cũng biết ngay, biết chắc cái “việc tồi bại” của Vua Ta chỉ là việc ba mươi năm xưa Vua từ nước Đại Lý ở tận cùng củ tỉ miền Nam bánh xe lãng tử lên tuốt tận Nhạn Môn Quan ở tít mú miền cực Bắc với mục đích thưỡng lãm phong cảnh biên thuỳ và thưởng thức phụ nữ biên thùy. Vua đã — nói huỵch toẹt ra cho nhanh gọn — gập một thiếu nữ biên thùy, Vua hứa cưới nàng, Vua phá trinh nàng và Vua phú lỉnh… Đoàn Chính Thuần chỉ có thể phạm cái tội đó thôi, Vua đâu có thể phạm cái tội nào khác. Nhớ lại cái gọi là “tội” đó, Vua nhận:
— Túc hạ nói đúng. Ba mươi năm xưa ta có làm một việc đáng xấu hổ ở Nhạn Môn Quan. Ta vẫn ân hận mãi…
Kiều Phong:
— Hôm nay tôi là người đến đòi Nhà Vua phải trả món nợ đó..
Đoàn Chính Thuần:
— Túc hạ cho ta biết ta phải gập túc hạ ở đâu?
— Đúng nửa đêm nay, tôi chờ Nhà Vua ở Thạch Thanh Kiều.
— Ta sẽ đến!
Thật là vớ vẩn, ấm ớ. Hà tiện tiền bạc, ai lại hà tiện lời nói. Chỉ vì không chịu hỏi lại cho kỹ, vừa nghe kể tội là nhận tội ngay nên Đoàn Nam Vương làm A Châu chết thê thảm, chết oan uổng. Phải chi cuộc đối thoại diễn ra như vầy:
— Ba mươi năm xưa Nhà Vua đã làm một việc tồi bại ở Nhạn Môn Quan..
— Túc hạ nói chi? Ký gì là việc tồi bại?
— Ba mươi năm xưa Nhà Vua là Thủ Lãnh Đại ca thống lãnh một đám cao thủ võ lâm lên Nhạn Môn Quan, phục kích giết chết cha mẹ Kiều mỗ. Nay Kiều mỗ yêu cầu Nhà Vua cho Kiều mỗ được báo thù..
— Ý chời.. Kiều bằng hữu nói chi? Lạ rứa? Bằng hữu nói ta là Thủ Lãnh Đại ca ư? Bằng hữu đừng có khôi hài, rỡn chơi chọc quê ta như dzậy chứ? Ta mà là Thủ Lãnh Đại ca ư? Ha.. Ha.. Sức mấy.. Không dám đâu.. Võ lâm trung nguyên có hết nhẵn cao thủ chức Thủ Lãnh Đại ca cũng chẳng có đến tay ta.. Võ công của ta chỉ xử dụng với đàn bà đẹp, đa tình thôi. Mà ta có oán thù gì với lệnh song thân mà ta lại vất vả lên tận Nhạn Môn Quan để hãm hại nhị vị? Cả đời ta có đánh nhau với ai bao giờ đâu? Bộ ta hết chuyện làm, chuyện chơi rồi hay sao mà ta lại đi giết người? Kẻ nào ác độc nói với bằng hữu ta là Thủ Lãnh Đại ca?
Bạn có thể nói nếu sự việc xẩy ra như vậy thì đó là chuyện khôi hài rồi, đâu còn là tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình long tranh, hổ đấu, mưa máu, gió tanh nữa? Đúng vậy. Tiểu thuyết khôi hài nhiều khi vô duyên nhưng được cái là không làm hại ai, không làm ai chết oan, chết lảng nhách. Việc hỏi kỹ cũng dzậy. Bài học Luân Lý Giáo Khoa Thư kiêm Công Dân Giáo Dục ta rút ra được đoạn Thiên Long này là: Người đi đòi nợ có thể không cần nói rõ từng chi tiết khoản nợ nhưng người bị đòi nợ thì không thể không hỏi thật kỹ về khoản nợ của mình. Khoan nói đến chuyện mình có thể bị mất mạng hay bị đánh hộc máu mồm, chỉ cần nói khi mình có thể bị tù tội vài niên vì cái gọi hết sứ mơ hồ là “việc tồi bại”, mình phải hỏi thật kỹ — mình có quyền, mình có bổn phận — cái “việc tồi bại” ấy là việc gì? Tại sao lại cho đó là việc tồi bại? Mình làm việc đó hồi nào? Ai làm chứng? Người làm chứng có thể tin được không? vv… Và việc ta phải làm khi ta bị kết tội là chối phắt đi. Đừng có nhận. Ít nhất cũng đừng có nhận tội ngay. Đợi đến lúc ta không sao còn chối được nữa, hoặc khi ta thấy ta chối ta sẽ bị thiệt hại hơn ta nhận, ta nhận cũng vừa.
Bài Công Dân Giáo Dục thứ hai là: Khi cần khóc ta cứ khóc. Đừng có mặc cảm. Anh hùng khí bạt sơn như Hạng Vũ lúc phải khóc cũng khóc, huống hồ là ta!
o O o
Tháng 10 năm 2007 sống ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, khi viết những dòng chữ quí bạn vừa đọc, có lúc tôi ngừng viết, tôi bùi ngùi nhớ lại năm xưa khi tôi đọc truyện Thiên Long Bát Bộ. Năm ấy tôi ba mươi tuổi.
Hôm nay, một ngày Tháng 10 năm 2015, cũng ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, khi viết những dòng chữ này, tôi ngậm ngùi nhớ lại tâm trạng tôi bẩy năm trước khi tôi viết Thiên Long Tình Sử. Cũng trên bàn này, computer này, trong căn phòng này.
Tôi tặng bạn những dòng chữ này, bạn là người 50 năm trước từng đọc Thiên Lòng Bát Bộ ở Sài Gòn của chúng ta.
Filed under: Viết Ở Rừng Phong | 3 Comments »