• Năm 25 tuổi

    hoang-hai-thuy-25-tuoi.jpg

    Hoàng Hải Thủy, năm 25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định, Sàigòn, Năm 1957.
  • Thể Loại

  • Được yêu thích …

  • Bài Cũ

Trường hợp Dương Quỳnh Hoa

Mỗi năm người có mười hai tháng,
Ta suốt năm dài Một Tháng Tư!

Thơ Thi sĩ Thanh Nam thiêng thật là thiêng. Ông làm bài Thơ Xuân Đất Khách trong có hai câu trên đây vào những năm 1977, 1978 khi ông ở thành phố Seattle. Năm ấy ông mới sống đời lưu vong-biệt xứ có hai, ba năm, nên ông mần Thơ nói lên chuyện “Người ta mỗi năm có 12 tháng, ta suốt năm dài chỉ có một Tháng Tư”, Thi sĩ bị ám ảnh suốt năm vì Ngày 30 Tháng Tư 1975. Nếu Nhà Thơ còn sống ở đời này đến Tháng Tư năm nay, năm 2008, chắc ông sẽ mần Thơ:

Đời người biết có bao nhiêu tháng,
Ta suốt đời ta Một Tháng Tư!

Thi sĩ Thanh Nam qua đời hơi sớm. Nếu ông không bị bệnh, không phải có thể mà là rất có thể năm nay, năm 2008, ông vẫn sống, ông vẫn mần Thơ. Thi sĩ Thanh Nam hơn ông Thuyền Trưởng Hai Tầu Văn Quang, hơn người anh em cùng vợ của tôi — anh Hát Hát Tê — có hai, ba tuổi chứ bao nhiêu. Nhiều lắm là ông Thanh Nam ra đời năm 1930, Thế kỷ 20. Năm nay, 2008, nếu ông còn sống, ông mới Bẩy Bó Lẻ Tám Que: 78. Vì ông nổi tiếng sớm, năm 1952 ông đã có tiểu thuyết được xuất bản ở Hà Nội, nên người đời tưởng ông cao tuổi.

Bay HongBa mươi năm sau khi Thi sĩ Thanh Nam làm 2 câu Thơ trên, Tháng Tư năm nay, năm 2008, tôi nhắc lại Thơ ông; năm nay tôi phải nhắc lại Thơ ông vì đúng như Thơ ông diễn tả, với nhiều người Việt Nam lưu vong, biệt xứ — trong số có tôi — suốt đời bị ám ảnh, bị đau xót, bị vỡ tim vì Ngày 30 Tháng Tư. Trong 19 năm 6 tháng sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 tôi sống ở giữa lòng Thành phố Thủ đô Sài Gòn thương đau, tôi cũng đau buồn mỗi năm khi Tháng Tư trở về, nhưng vì đang sống trong Địa Ngục, tôi đau quanh năm, tôi buồn vô kể, tôi buồn mỗi năm 12 tháng, nên khi Tháng Tư trở về, tôi không buồn hơn những Tháng Ba, Tháng Năm bao nhiêu. Từ ngày bánh xe lãng tử đưa tôi sang Kỳ Hoa Đất Trích, được sống trong Tự Do, phải xa quê hương nên tôi thương nhớ quê hương — quê hương của tôi là Sài Gòn — mỗi năm Tháng Tư về, ở xứ người, tôi buồn ra rít. Tháng Tư nơi Đất Trích, tôi buồn hơn những Tháng Tư tôi sống ở Sài Gòn.

Từ Tháng Tư 1995 đến nay là 13 năm, 13 Tháng Tư, Tháng Tư năm nào tôi cũng viết một, hai bài về Ngày 30 Tháng Tư 1975. Những bài tôi viết chỉ là than khóc, thương tiếc, buồn đau, tưởng nhớ. Bi thì có, hùng thì không. Không có hào hùng, cũng không có bi hùng một ly ông cụ nào trong những bài tôi viết, và trong suốt cả đời tôi. Từ 10 năm nay, cứ sau mỗi Tháng Tư, tôi lại tự nhủ: Sang năm mình sẽ không viết gì về Tháng Tư nữa. Tôi tự nhủ như thế vì có những gì tôi thấy, tôi nhớ, tôi đau về Ngày 30 Tháng Tư 1975 tôi đã 10 lần kể, tôi đã viết ra hết rồi:

Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái,
Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
Thôi thế Em về yên Xóm Cỏ,
Cây Đời đã cỗi gốc Yêu Đương.
Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió,
Cho đống xương tàn được nở hương.

Thơ thương khóc Nhân Tình, Nhân Bánh nhưng cứ coi như Em, Người Tình trong Thơ là Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, cứ coi Ngày Oan Trái Anh mất Em, Ta mất Nhau là Ngày 30 Tháng Tư 1975. Em đã về yên Xóm Cỏ! Người Tình đã ra nghĩa địa, thương khóc đến mấy Nàng đã chết là Nàng đã chết. Nàng chết đến nỗi không còn ai có thể chết hơn Nàng. Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa của tôi đã tiêu vong, tôi có thương tiếc chừng bao cũng không thể làm cho Quốc Gia của tôi sống lại. Nhưng tiếc thương tôi cứ tiếc thương.

Em gần hãy mộng trang hồng sử,
Chờ sáng mai trời rạng ánh dương.
Em xa hãy trọn sầu ly xứ,
Còn Nhớ Thương Em cứ nhớ thương. *

Người là thế. Thú vật còn tiếc thương, còn nhớ thương, nói chi là Người.

Năm 1979 sau 24 tháng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, văn huê là Cửa Ngõ Tù Đầy của những công dân Quốc Gia VNCH ở Sài Gòn, gọi đúng tên là Trung Tâm Thẩm Vấn Nhân Dân của Sở Công An VC Thành Hồ, tôi xách cái sắc du hành Pan American Made in ChoLon Rách — trở về mái nhà xưa dzột nát và vòng tay gầy của người vợ hiền. Sau 24 tháng cách xa, chị vợ ở nhà một mình, anh chồng nằm phơi rốn 12 tháng trong xà-lim, rồi 12 tháng trong phòng tù đông tù, nay lại được sống bên nhau trong căn nhà nhỏ, bên ánh đèn mờ, rủ rỉ kể chuyện nhau nghe, Alice kể:

– Anh bị bắt rồi, trong mấy tháng trời thằng Huỳnh Bá Thành nó cứ gọi em lên Sở. Mỗi lần bọn Công An Phường đem giấy gọi vào nhà, em lại sợ không biết có chuyện gì xẩy ra với anh trong tù không. Giấy gọi nó có để vì việc gì đâu, nó chỉ ghi “Về việc: sẽ cho biết sau.” Nó gọi em đến Sở lúc 9 giờ, nó để em ngồi chờ đến 10 giờ, có khi 11 giờ nó mới ra tiếp. Có lần đến 2, 3 giờ trưa nó mới thả cho em về. Em mệt, em đói lả đến đi không nổi. Mà nó ba hoa toàn chuyên ba lăng nhăng không à. Nó khoe chúng nó yêu nước, chúng nó có chính nghĩa, nhân dân về phe chúng nó. Khoe mãi hết chuyện, nó hỏi em: “Chị đã coi phim Chiến Tranh và Hòa Bình chưa?” Em nói em coi rồi, nó nói: “Không. Chị phải xem phim Chiến Tranh và Hòa Bình của Liên Xô cơ. Phim Mỹ không hay bằng phim Liên Xô.” Nó nói: “Rồi chị coi. Chúng tôi sẽ xây dựng nước Việt Nam thành một vườn hoa trên bờ biển Thái Bình Dương.” Nó nói gì mặc nó, nhưng khi nó nói:

– Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa nó đã chết rồi. Anh chồng chị cứ đào cái thây ma nó lên, anh ấy than khóc nó.

Em chịu không nổi, em nói:

– Nếu Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa nó đúng, thì nó có chết cả trăm năm cũng cứ đào xác nó lên mà than khóc nó. Tại sao lại không? Nó mới chết có hơn một năm nay mà!

Alice giao hẹn:

– Nếu Quốc Gia mình trở lại, ai dành cái gì thì dành, em dành thằng Ba Trung. Em sẽ xích cổ nó vào chân giường em, em cho nó ăn uống đàng hoàng nhưng em bắt nó suốt ngày phải nói: “Xây nước Việt Nam thành vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương.”

Nàng kể:

– Có lần Ba Trung nó dọa em: Đáng lẽ chúng tôi phải bắt chị.

Em nói:

– Các anh bắt tôi đi, tôi cám ơn. Tôi mong các anh bắt tôi. Các anh cho tôi vào tù, tôi sẽ không còn phải lo gì nữa. Bây giờ tôi phải lo nuôi các con tôi, nuôi chồng tôi trong tù, tôi mệt quá.

Than ôi..! Đã 30 mùa lá rụng đi qua cuộc đời vợ chồng tôi kể từ ngày, trong căn nhà nhỏ, ảm đạm, tối, trong nhà ban ngày có khách cũng phải bật đèn, nhưng đằm thắm Tình Yêu, xanh biếc Mến Thương, vợ tôi giao hẹn Quốc Gia trở lại, ai dành cái gì thì dành, Nàng dành anh Cu Công An VC Ba Trung Huỳnh bá Thành. Nhưng, như những năm 1970, Văn sĩ Vladimir Nabokov, tác giả tiểu thuyết Lolita, mơ cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ đánh sụm bà chè bọn Cộng sản trên khắp thế giới, để ông trở về Thành phố Thánh Peter thời thơ ấu của ông, giấc mơ Nàng Alice Sài Gòn xích cổ anh Công An VC vào chân giường, Nàng bắt anh suốt ngày phải nói câu: “Xây nước Việt Nam thành một vườn hoa trên bờ Thái Bình Dương..” không thành, Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa của Nàng, của tôi, một đi là không trở lại.

Cũng có cái may cho tôi là tôi không ngày nào phải nhìn bộ mặt thiểu não của anh Công An VC bị xích cổ dưới chân giường của vợ tôi. Giả như chuyện ấy xẩy ra, chuyện Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa trở lại, vợ tôi xích cổ anh Công An VC Ba Trung Huỳnh bá Thành dưới chân giường Nàng, anh năn nỉ tôi xin Nàng cởi xích cho anh, tôi mí làm sao? Tôi, chuyên viên Ba Phải, ai nói gì cũng cho là đúng, cả nể, không có ý riêng, không bao giờ quyết đoán, tôi thương người: thấy người bị xích cổ nơi chân giường thì thương nhưng nể vợ, chiều vợ: Nàng hận, nàng ức, nàng khổ nhiều rồi, nay Nàng chỉ có cái dzui là xích cổ anh Công An VC nơi chân giường, mình cũng làm Nàng mất dzui sao?

Quốc Gia một đi không trở lại, nhưng thương khóc Quốc Gia thì mỗi năm cứ đến Tháng Tư, không phải chỉ mình tôi, nhiều người Việt Nam ở hải ngoại thương khóc. Như năm nay, 2008, đã 33 năm, 33 lần, biết bao nhiêu người thương khóc vì Ngày 30 Tháng Tư, bao nhiêu bài viết, bao nhiêu lời thơ. Nhiều lắm, không kể xiết. Đất Nước ơi..! Ba mươi năm, chúng tôi vẫn nhớ, vẫn thương, vẫn khóc!

Bọn Bắc Cộng vào Sài Gòn, chúng chiếm ngay, chúng dùng ngay Đài Truyền Hình của tôi. Nhân vật Bắc Cộng lên màn ảnh TiVi Sài Gòn trước nhất là anh Huy Cận. Rồi tôi thấy lục tục xuất hiện mấy trự trong cái gọi là Chính phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam. Anh Huỳnh tấn Phát, Thủ Tướng, sướng đến nỗi trả lời phỏng vấn của người trong bọn anh mà anh cứ cười toe, cười toét, anh không biết nói gì cả, anh ngây ngô, ngấy ngố. Tôi thấy ông già Lâm Văn Tết. Những năm 1960 tôi thấy ông Lâm văn Tết vài lần trong vài cuộc họp báo. Ông đi theo bọn Bắc Cộng hồi nào ai mà để ý. Nay ông về Sài Gòn trong đám bèo nhèo lẹo tẹo theo đuôi bọn lính Bắc Cộng; lên màn ảnh TiVi ông Lâm văn Tết Giải Phóng đội mũ bê-rê, ngồi đó, không nói chi cả. Rồi ông lại mất tích, lần này ông mất tích luôn.

Việc anh Huỳnh tấn Phát là Thủ Tướng cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Vịệt Nam làm tôi có chút théc méc. Theo cái nhớ rất có thể không đúng của tôi thì Thủ Tướng Chính phủ LTMNVN là bác sĩ Phùng văn Cung. Năm 1968 bác sĩ PV Cung là Trưởng Ty Y Tế Tỉnh Châu Đốc. Tết Mậu Thân, ông đi theo bọn Việt Cộng. Cuối năm 1975, đầu năm 1976, một anh bạn tôi trước vẫn khai thác gỗ trong rừng, nay móc nối làm ăn với bọn Bắc Cộng, hay kéo tôi đi ăn nhậu với anh. Trong một lần đi với bạn tôi gặp cô con gái của ông Phùng văn Cung. Anh bạn tôi muốn nhờ cô này chạy dùm cho anh mấy cái hợp đồng khai thác cây rừng, anh cho rằng cô quen biết nhiều giới cán bộ VC.

Ông Phùng văn Cung có hai cô con, cô tôi gặp đây là cô lớn. Năm ấy tôi không biết cô từng là vợ của anh Phan lạc Tuyên, Cựu Đại Úy Quân Lực Quốc Gia VNCH, tác giả bài thơ được phổ nhạc Tình Quê Hương “Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới gốc dừa. Nắng chiều lên mái tóc. Tình quê hương đơn sơ..” Sau cuộc đảo chính bất thành năm 1961, Đại úy Phan lạc Tuyên chạy sang Nam Vang rồi theo VC. Tháng Tư năm 1975 cô con Bác sĩ Phùng văn Cung đã ly dị với chồng là Phan lạc Tuyên. Năm ấy cô trạc 30 tuổi, phấn son, chưng diện kiểu tiểu thư Sài Gòn, cô kể:

– Sau Tết Mậu Thân, ba tôi đi ra khu, mẹ con tôi vẫn ở Sài Gòn. Chính quyền Quốc Gia không làm khó gì chúng tôi cả. Sau đó những người Việt Cộng đưa mẹ con tôi sang Nam Vang, từ Nam Vang chúng tôi lên phi cơ bay sang Bắc Kinh, rồi bay về Hà Nội, gặp lại ba tôi.

Cô kể:

– Họ cho chị em tôi sang Liên Xô học. Hàng tháng chúng tôi phải đến họp ở Tòa Đại Sứ. Trong buổi họp bọn du học sinh Bắc kỳ chúng nó cứ thi nhau than nghèo, kể khổ, rồi cám ơn Bác và Đảng, nhờ Bác và Đảng, bố mẹ chúng nó mới được đi giép, mùa đông được nằm ngủ có mền. Nhiều đứa vừa kể vừa khóc. Cứ nghe chúng nó nói như vậy là tôi tức cười, tôi nhịn cười không được. Ông Đại sứ cứ mách hoài với ba tôi chuyện tôi cười.

Một buổi sáng năm 1977, trong một xà-lim ở Khu B Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, nhìn qua ô cửa gió ra ngoài, tôi thấy một nữ tù nhân bị công an đưa vào phòng thẩm vấn. Người nữ tù ấy giống cô con ông Phùng văn Cung tôi đã gặp. Giống quá là giống. Cô bị bọn Công An Thành Hồ bắt ư? Có thể lắm.

Tháng Năm 2008, người Nữ đảng viên Đảng Cộng sản Dương quỳnh Hoa được nhiều ngừơi viết ở hải ngoại nhắc đến. Mời quí vị đọc một đoạn trong bài viết về Đảng viên CS Dương quỳnh Hoa của người viết Nguyễn Văn Lục.

DƯƠNG QUỲNH HOA. Trích:

Phần đông những người của MTGPMN đều là trí thức, chuyên viên. Có tất cả khoảng 30 người vào khu. Chỉ có ba cặp vợ chồng, còn tất cả đi một mình. Có thêm 6 thanh niên chưa quá 30 tuổi. Vào khu rồi bà Dương Quỳnh Hoa mới thành hôn với kỹ sư Huỳnh Văn Nghị. Ngay sau 1975, chừng một tháng, Hà Nội đã xóa sổ MTGPMN. Từ đó phần đông những người theo Mặt Trận bất mãn, chống đối và ly khai. Họ là những người như Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Trọng Văn, (ba người này không vào khu, vẫn ở thành phố) Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa. Trước đây, họ bị coi là bù nhìn, sau họ cảm thấy bị phỉnh gạt trắng trợn. Phần lớn âm thầm, nuốt nhục rút lui, hoặc trốn ra ngoại quốc như Bộ trưởng Trương Như Tảng.

Dù sao, “bỏ quên” là một hình thức khai trừ nhẹ nhàng nhất mà họ may phúc được hưởng.

Hoặc xin ra khỏi đảng như vợ chồng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa. Bà Dương Quỳnh Hoa mất ngày 25/02/2006, tại Sài Gòn. Sinh thời, bà theo học ngành Thuốc tại Sài Gòn, rồi sang học ở Pháp, gia nhập Đảng Cộng sản Pháp vào những năm 1948-1954. Với tư tưởng xã hội và cấp tiến như thế, bà tham gia MTDTGPMN. Sau này bà thú nhận, đó là một ảo tưởng chính trị trong đời.

Ông Huỳnh Văn Nghị, chồng bà đã phản đối quyết định thống nhất ngay lập tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Liên Minh các lực lượng dân chủ và hòa bình. Họ bị loại trừ. Bà xin ra khỏi đảng, nhưng thời đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với điều kiện bà phải giữ im lặng. Nhưng sư im lặng đó không kéo dài được lâu khi bà phải chứng kiến quá nhiều điều “phản cách mạng” từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam “thực thi” cái lý tưởng mà bà đã hy sinh cả đời sống cho nó. Khi được tờ báo Far Eastern Economic Review (FEER) phỏng vấn vào ngày 17/10/1996: “Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 années passées?” Bà trả lời: “L’effondement du mur de Berlin qui mit un terme à la “grande illusion“. Tạm dịch: “Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?” DQH: “Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng.”

Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt Nam, bà Dương Quỳnh Hoa trả lời:

– Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn. (“I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communism, and it is a failure – mismanagement, corruption, privilege, repression. My ideals are gone.“)

Những người khác như quý ông Trịnh Đình Thảo (1901-1982), vợ là bà Ngô Thị Phú, quê quán Sóc Trăng. Ông Lâm Văn Tết ( 1896-1982) Ông bà Phùng Văn Cung, vợ là Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, vợ là nghệ sĩ Tâm Vấn, Ông bà Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ là nữ sĩ Vân Trang, thân sinh ra Gs Địa chất Trần Kim Thạch. Em gái bà Vân Trang là nghệ sĩ Mộng Trung, vợ Trần Văn Khê. Giáo sư Nguyễn Văn Chì, vợ là là bà Nguyễn Đình Chi, Chánh án Phạm Ngọc Thu, Võ Ngọc Thành, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn văn Ngỡi, bà Bùi thị Nga, vợ ông Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.

Bài thứ hai về bà Dương Quỳnh Hoa, đăng trên Net, người viết Phan Kiến Quốc, viết tại Sài Gòn ngày 15 Tháng 3, 2007.

Tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại Paris, bà Dương Quỳnh Hoa về làm việc tại Sài Gòn và trở thành đảng viên cộng sản vào cuối thập niên 50. Vào bưng sau trận đánh thất bại Tết Mậu Thân, bà trở nên biểu tượng của giới trí thức miền Nam chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng sau gần 20 năm đi theo Đảng, niềm vui chỉ đến với bà chưa đầy nửa năm. Sau khi chế độ cộng sản khai tử Mặt Trận Giải Phóng miền Nam cuối năm 1975, bà đã lần lần nhận ra bộ mặt thật của chế độ: những người đảng viên không chiến đấu cho đất nước, dân tộc mà chỉ làm theo lệnh của cộng sản quốc tế với mục đích nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Cuối thập niên 1970 bà nói với Nguyễn Hữu Thọ:

Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.

Sau đó bà tuyên bố trả lại thẻ Đảng và từ chối mọi nhiệm vụ chính thức. Đảng CS không ra tay thủ tiêu bà vì sợ đụng đến thành phần cán bộ gốc Nam bộ nhưng yêu cầu bà giữ im lặng.

Giữa thập niên 1990, nhân chuyến đến thăm VN của Tổng Thống Pháp Mitterrand, Đài Truyền Hình Pháp làm một phóng sự về cuộc sống thường nhật của vợ chồng bà Dương Quỳnh Hoa, ông chồng bà Hoa cũng là một trí thức tốt nghiệp tại Pháp nhưng đã sớm nhìn ra bản chất của chế độ ngay từ những năm 1970 nên ông “mũ ni che tai” ngay từ thời ấy. Hình ảnh êm đềm của hai vơ chồng già bơi xuồng qua những con lạch nhỏ vói hàng dừa rủ bóng đã không che dấu được những nhận xét vô cùng chua chát về chế độ. Khi được phỏng vấn về các nhà lãnh đạo Việt Nam bà trả lời lạnh lùng:

Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản..

Trước đó bà đã trả lời phỏng vấn của Đài CBS Mỹ:

Trong chiến tranh, chúng tôi sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm trong tay Đảng, Đảng coi nhân dân như kẻ thù.

Hình ảnh sau cùng khán giả truyền hình Pháp thấy về bà Dương Quỳnh Hoa là con thuyền nhỏ trôi khuất trong đám dừa nước, để lại đằng sau một vệt nước dài như những mối u uẩn cho đến suốt cuộc đời của bà.

Ngày 25/2/2006, người nữ đảng viên-cán bộ cộng sản đã đóng góp một phần không nhỏ vào Chiến thắng 1975 lặng lẽ từ trần. Không kèn không trống, không một lời phân ưu, cáo phó, không một mẩu tin trên các cơ quan thông tấn nhà nước.

Bay Hong and HusbandTôi — kẻ viết những dòng này — là một người Sài Gòn chân chính và là người Việt Nam vô sản chân chính kiêm chuyên chính. Là người Sài Gòn chân chính vì tôi sống ở Sài Gòn 40 năm trong 60 năm đầu của đời tôi, vì tôi yêu thương Sài Gòn, vì tôi biết ơn Sài Gòn, vì tôi không phụ bạc Sài Gòn; tôi là người Việt Nam vô sản chân chính và chuyên chính vì theo định nghĩa “vô sản” của Các Mác, Lê-nin, tôi là người không có cái gọi là “tư liệu sản xuất”, một xu “tư liệu sản xuất” tôi cũng không có. Tôi là công nhân làm thuê. Từ khi không sống nhờ cơm cha, áo mẹ nữa, viết rõ là từ năm tôi 20 tuổi, tôi bán sức lao động kiếm cơm ăn, áo mặc cho tôi và vợ con tôi. Tôi ngồi gò lưng tôm, cặm cụi viết một bài gọi là phóng sự tiểu thuyết trong khoảng từ 3 giờ đến 5 giờ đồng hồ, đem đến bán cho những ông Hồ Anh, chủ Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, ông Quốc Phong, chủ Tuần báo Kịch Ảnh, ông Sáu Khiết, chủ Tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai, tôi được trả số tiền — cho là 1.000 đồng — cùng trong thời gian 5 tiếng đồng hồ đó ông Hồ Anh nằm phây phây với một em poule de luxe thơm như múi mít, ông Quốc Phong ngồi ung dzung đánh chắn, ông Sáu Khiết thơ thới đưa vợ nhỏ đi chơi Vũng Tầu, các ông vẫn có số tiền vô là 5.000 đồng. Dù các ông không phải làm, phải viết một chữ nhưng các ông là chủ báo, các ông có tờ báo là “tư liệu sản xuất, công cũ sản xuất”, các ông có bọn công nhân vô sản — như tôi — cong lưng làm việc cho các ông dzui thú sự đời mà các ông vẫn có tiền vô. Tôi kể để quí vị thấy tôi là “người Sài Gòn vô sản chân chính và chuyên chính.” Không ai có thể là “người Sài Gòn vô sản chân chính-chuyên chính” hơn tôi. Trong cái gọi là Khóa Bồi Dzưỡng Chính Trị cho Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn Hàng Thần Lơ Láo tổ chức tại Sài Gòn Cờ Đỏ Tháng Bẩy năm 1976 — sau khi bọn Công An Thành Hồ cho vô tù khoảng 30 ký giả, văn nghệ sĩ, đạo diễn điện ảnh Sài Gòn – trong bản khai gọi là “Bản Thu Hoạch” sau khóa học, tôi ghi thành phần giai cấp của tôi là “Vô sản.” Anh Việt Cộng Theo Đuôi Vũ Hạnh cự tôi:

– Sao anh lại để trong lý lịch anh là thành phần Vô sản?

Coi bộ anh ta nghĩ một cách ngu ngốc rằng giai cấp vô sản là quí lắm, chỉ những người cộng sản mới được tự nhân là giai cấp vô sản, bọn Sài Gòn chống Cộng như tôi là không được.

Tôi hỏi lại:

– Không phải Vô sản thì tôi là cái gì?

– Anh là Tiểu Tư sản.

Tôi cãi:

– Làm sao tôi là Tiểu Tư sản cho được? Tư sản là của riêng mà sản xuất được ra của cải vật chất. Tôi có cái gì là tư liệu sản xuất đâu? Tôi bán sức lao động của tôi cho chủ báo… Sức lao động không phải là công cụ sản xuất, không phải là tư sản. Tôi không phải là Tiểu Tư sản, tôi là Vô sản.

Tiểu Tư sản không xấu gì, Vô sản không hay gì, nhưng mình ở giai cấp Vô sản thì dù nó có kề dzao vào cổ mình, nó có dzí súng vào mang tai mình, nó bắt mình không được nhận mình ở giai cấp Vô sản, mình cũng không chịu. Tôi kiêu hãnh vì suốt đời tôi, tôi sống lương thiện, tôi bán sức lao động của tôi để sống, tôi không ăn bám, tôi cũng không bóc lột ai cả.

Vì là dân vô sản chuyên chính nên, như cả triệu người dân Sài Gòn cùng thời, tôi bận làm, bận kiếm tiền, bận ăn chơi, trong bao năm tôi mù tịt về chuyện thời sự cùng chuyện chính chị, chính em, tôi có nghe nói loáng thoáng đến bà Dương Quỳnh Hoa nhưng tôi chẳng biết bà ta làm những trò trống gì. Nhưng.. viết tôi chẳng biết gì là không đúng hẳn, tôi có biết bà Dương Quỳnh Hoa nhưng chỉ biết rất qua loa, tôi biết bà DQ Hoa trong thời du học ở Pháp, có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản, giao du với bọn cộng sản. Nhưng đất nước bị Cộng sản gây chiến, máu đổ, lệ rơi, thanh niên anh tuấn chết tan xương vì nước, những người đẻ bọc điều sang Tây học, dzính dzấp với bọn gọi là Phe Tả — Phe Thổ Tả — có gì là lạ. Ở Sài Gòn những năm 1962, 1963, nghe nói bà Dương Quỳnh Hoa có thời giao dzu thân mật với ông Bộ Trưởng Bộ Thông Tin Chính phủ Việt NamCH. Tôi quên tên ông này, chỉ nhớ ông làm Bộ Trưởng Bộ Thông Tin sau ông Trần Chánh Thành. Ông này cũng là bác sĩ, từng quen biết bà DQ Hoa khi hai người cùng học ở Pháp. Ông mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao, thuộc loại Playboy Trí thức, con nhà giầu, đẹp trai, học giỏi, kính trắng.**

Tết Mậu Thân, bà Dương Quỳnh Hoa ra khu theo VC, tôi không biết, hay là có nghe nói mà tôi chẳng để ý. Tôi chẳng để ý cũng đúng thôi, bà DQ Hoa ở Sài Gòn hay ra khu ăn thua mẹ gì đến tôi. Thế rồi..

Thế rồi.. những ngày như lá, tháng như mây, một buổi tối năm 1982, hay năm 1983, khoảng 9 giờ, nằm bên cái radio Sony cũng già lão, ọp ẹp, rệu rã như tôi trong căn gác lửng tối om, vo ve tiếng muỗi, tôi nghe Đài Phát Thanh BiBiSi — BBC — kể chuyện bà Dương quỳnh Hoa, Giám đốc Bệnh Viện Nhi Đồng 2, ở Nhà Thương Grall, trả lời phỏng vấn của ký giả ngọai quốc, về tình trạng nhiều trẻ em Sài Gòn bị thiếu ăn nên đau ốm, còm cõi. Ký giả ngoại quốc hỏi: “Tại sao các em lại thiếu ăn?” Bà Hoa nói:

– Dân Việt nghèo không nuôi nổi con.

– Tại sao dân Việt Nam bây giờ lại nghèo quá đến như thế?

Bà Hoa trả lời:

– Đảng Cộng sản gây ra tình trạng ấy. Đảng dùng toàn những người ngu dzốt điều hành công việc nhà nước.

Nghe bà nói thế, tôi nhớ đến lời của Tổ sư CS Lê-nin “dậy” về “người trí thức”, một chuyện tôi mới láp nháp đọc được. Đại khái, Lê-nin phân giải:

Có hai loại “trí thức” đi với Đảng. “Trí thức Tư sản” và “Trí thức Vô sản.” “Trí thức Tư sản” làm cách mạng phá sự thống trị xã hội của giai cấp tư sản-tư bản bóc lột, nhưng khi thành công không chịu chấp nhân thực hiện chế độ “vô sản chuyên chính”. “Trí thức Vô sản” khi đoạt được chính quyền, chấp nhận thực hiện chế độ “Vô sản chuyên chính.”

Vô sản chuyên chính” là lời nước vỏ lựu, máu mào gà, là pom-mát để bôi cho trơn, để mập mờ đánh lận con đen của bọn Cộng sản. Tên thực của nó là “Cộng sản độc tài.” “Vô sản chuyên chính” là nói bậy. “Vô sản” không có quyền chuyên chính, chuyên tà gì cả. “Vô sản” dưới ách Cộng sản khổ nhục hơn dưới ách Tư Bổn. Cướp được chính quyền, những người trí thức tư sản muốn thấy những người có học trong bộ máy chính quyền, muốn đất nước được trị theo pháp luật, muốn có sự phân quyền Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp, muốn có tự do ngôn luận, tự do bầu cử. Bọn Cộng sản khi cướp được chính quyền thì cho giới trí thức đi chỗ khác chơi, chịu câm mõm thì chúng cho ngồi chơi không sơi nước, ọ ẹ thì chúng cho dzô tù mút chỉ cà tha kiêm mút mùa Lệ Thủy. Chúng tiêu diệt giai cấp tư sản, chúng cấm dân “làm ăn cá thể,” tức làm riêng, chúng diệt hết nông dân, tiểu thương, tiểu công nghệ, chúng cấm tiệt mọi thứ Tự do, chúng dùng toàn bọn ngu dzốt làm việc nước. Vì ngu dzốt, bọn gọi theo Tầu Cộng bằng cái tên Tẫu là cán bộ dễ bảo, bảo gì làm nấy. Vì ngu dzốt, bọn viên chức xã hội chủ nghĩa phá nát xã hội, làm nhân dân nghèo đói te tua, làm đất nước nát hơn, không phải nát hơn cái mền Sakymen, mà nát hơn cái giẻ rách. Nhân dân đói khổ, các em nhỏ thiếu ăn, nhưng bọn cộng sản cứ dzửng dzưng, cứ hung hăng thúc đít nhân dân “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã hội chủ nghĩa.” Đảng viên Dương Quỳnh Hoa là “trí thức tư sản” đi theo Đảng nên không chấp nhận “Cộng sản độc tài.”

Tôi bèn “vận dzụng” cái gọi là “Hiểu biết về Xã Hội Chủ nghĩa” ngu ngơ, lép nhép của tôi để viết một bài gọi là “phân tích chính trị” về trường hợp Nữ Đảng viên Dương quỳnh Hoa tỏ ra bất mãn với Đảng, tại sao người đảng viên này lại không chấp nhân “Vô sản độc tài?” Tôi viết bài và gửi bài sang Mỹ, sang Pháp, sang Úc. Tất nhiên tôi viết tay, chép ra làm ba, bốn bản, chữ nhỏ li ti, viết luôn cả hai mặt giấy, cho phong thư không quá dầy. Những năm 1982, 1983 tôi có thừa rất nhiều thì giờ.

Vì những bài viết như thế tôi bị bọn Công An P 25 đến nhà còng tay đưa đi tù lần thứ hai Tháng Năm năm 1984. Chúng dò biết tôi là người viết những bài ấy dễ thôi, không có kỹ thuật tình báo tinh vi, cao siêu gì. Chúng có những tờ báo Việt ở Mỹ, Úc, Pháp gửi về, chúng nghiên kíu những bài trong báo mà chúng thấy đúng là viết từ Sài Gòn gửi đi, chúng tính toán xem văn nghệ sĩ Sài Gòn nào có thể viết những bài ấy. Chúng theo dõi, kiểm xoát thư nước ngoài gửi về cho người ấy. Và chúng tìm ra bằng chứng. Thế thôi. Sau 1 năm nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, 4 năm nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa, năm 1988 bọn CS Thành Hồ đưa tôi ra Tòa Án Nhân Dzân, tức tòa án chuyên xử nhân dzân, bọn Chánh án Tay Sai đọc cáo trạng về tôi, trong có tội:

– Viết những bài Tiền Trao, Cháo Múc, Trường Hợp Dương Quỳnh Hoa, Trường Hợp Hoàng Cầm, gửi ra nước ngoài.

Khi ấy nếu tôi bảnh, chỉ cần bảnh tí ti thôi, không cần bảnh nhiều, lại càng không cần hào hùng, khi chúng kể tội tôi như thế, tôi có thể hỏi:

– Các vị bắt tù tôi vì cho là tôi có tội đã viết ba bài đó. Quí vị cho tôi biết tôi đã viết những gì trong ba bài đó để các vị cho là tôi có tội?

Về bài Trường Hợp Dương Quỳnh Hoa, tôi có thể cãi:

– Tôi viết chống Đảng hay kêu gọi người khác lật dổ bàn thờ Bác Hồ đâu có? Trong bài ấy tôi chỉ viết bà Dương Quỳnh Hoa là “trí thức tư sản“, nên bà chống việc thực hiện chế độ “Vô sản chuyên chính.”

Nhưng như đã viết nhiều lần, tôi không được thông minh, miệng lưỡi tôi không sắc xảo, thêm vào đó là tôi sợ tù đầy, ra tòa tôi không dám cãi, không dám tỏ ra là người tù hào hùng, sợ nó phang án nặng, nên tôi im. Tôi tự an ủi bằng ý nghĩ: Cãi hay không chẳng ăn thua gì. Chúng nó đã định trước án tù của mình. Mình cãi, án tù của mình chỉ nặng hơn, không bao giờ giảm. Nói cho sướng miệng cũng được thôi, nhưng nó cho nằm trong tù thêm năm, bẩy năm nữa, coi bộ không được tí nào.

Vì nghĩ thế nên năm 1988, khi ra tòa, bị kết tôi “viết bài Trường Hợp Dương Quỳnh Hoa” gửi ra nước ngoài, tôi không hỏi tôi đã viết gì trong bài đó để bị cho là có tội với chế độ? Để bị bắt, để bị giam tù đã 4 năm? Đêm, nằm phơi rốn trên sàn xi-mo Nhà Tù Chí Hòa, nhớ lại vụ xử ban ngày, tôi thấy tôi đã bị án tù 2 năm vì bài viết về người đảng viên Dương Quỳnh Hoa, tù 2 năm vì bài viết về Thi sĩ Hoàng Cầm, tù 2 năm vì bài Tiền trao, Cháo múc, tù 2 năm vì tội là văn nghệ sĩ Sài Gòn. Ra tòa năm ấy, 1988, tôi bị án 8 năm tù khổ sai, sau rút xuống 6 năm.

Tôi đã viết khá nhiều về Hoàng Cầm, hôm nay tôi chỉ viết sơ về bài Tiền trao, Cháo múc.

Số là một hôm nằm buồn đọc một bài bọn Thợ Viết Cộng sản đả kích xã hội tư sản — những bài lý luận loại này bọn Thợ Viết Nga viết, bọn Cộng Hà Nội dzịch, đăng — chúng lên án “xã hội tư sản lạnh lùng, không tình nghĩa, chỉ biết tiền trao, cháo múc“. Tôi đọc mà điên tiết. Tôi viết bài “Tiền trao, Cháo múc” với lý luận quy luật “Tiền trao, Cháo múc” là đúng, là công bằng, là hợp pháp, hợp lý. Vợ tôi vú tóp, mông teo vì đói, vì lo, vì thương chồng con, đêm 1 giờ sáng mới ngủ, 3 giờ sáng đã dậy, vất vả nấu được nồi cháo, đem ra đầu ngõ, bán từng bát, kiếm chút lời cháo cho con. Anh đến anh đòi ăn cháo, anh không trả tiền mua cháo, vợ tôi không múc cháo cho anh, anh hung hăng con bọ xít anh kết tôi vợ tôi là “bọn tư sản thối nát, bọn không chút tình người, bọn đòi phải trao tiền mới múc cháo.” Anh nói ngu hơn con chó. Trong bài này ngoài lý luận “Tiền trao, Cháo múc” là đúng, tôi chửi bọn Cộng sản là bọn “Tiền không trao, Cháo cứ múc“: chúng ăn cướp của dân, và là bọn “Tiền có trao, Cháo không múc“: chúng lấy không tiền của dân, dân nộp tiền cho chúng, chúng không làm gì có ích cho dân.

Trong số những cặp vợ chồng Hai Ngố, Ba Nghệt, Tư Hoạn, Năm Lành, Sáu Bảnh, dẫn xác vào khu theo Việt Cộng, viết có “Thanh Nghị Hoàng trọng Quỵ và vợ là Nữ nghệ sĩ Tâm Vấn” là không đúng. Nữ nghệ sĩ Tâm Vấn là vợ Thanh Nghị, nhưng khi Thanh Nghị bỏ nhà đi theo VC năm 1968, bà Tâm Vấn không còn là vợ Thanh Nghị nữa. Bà Tâm Vấn không tha thứ cho Thanh Nghị cái tội đi theo VC. Bà đoạn tuyệt ngay với Thanh Nghị, sau đó bà kết duyên với Bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Bà là vợ Bác sĩ Nguyễn Đan Quế từ năm 1970 đến bây giờ. Sau khi Chính phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam bị bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ bóp mũi cho chết, Phó Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Hoàng trọng Quỵ bị cho làm nhân viên Thư Viện. Vì Trương như Tảng, một thành viên Chính phủ, bỏ trốn sang Pháp, chắc bọn Lê Duẩn cho công an canh chừng chặt chẽ những người như Hoàng trọng Quỵ, không để anh chị nào trốn đi nữa, nên, nghe nói, Hoàng trọng Quỵ than:

Tôi bây giờ là thằng tù giữ sách.

Cũng nghe nói Thanh Nghị HT Quỵ chết không nhắm được mắt, phải nhờ bà Tâm Vấn đến vuốt cho mắt mới nhắm được.

Viết về Nữ Ca Sĩ Tân Vấn phải là một bài viết dài, trang trọng, không thể chỉ trong vài chục dòng. Nhưng bài Viết ở Rừng Phong hôm nay đã đủ dài. Đến đây xin tạm chấm dzứt Chương Trình Văn Nghệ Tạp Lục của Ban Tùm Lum.

.

.

.

————————————————————
* Thơ của người anh em cùng vợ với tôi, anh HHT.

** Quí vị nào nhớ tên ông Bác sĩ một thời xưa là Bộ Trưởng Bộ Thông Tin được kể trong bài này làm ơn cho tôi biết. Tôi cám ơn. CTHĐ

9 Responses

  1. Do la BS Tran van Tho, TGD Thong Tin !
    Thoi diem do, Bo TT chi con la Tong Nha.

  2. Tra loi: Nguyen Dinh Thuan, nhu trong phan trich dan duoi day:

    When the reconciliation is in good progress, Mrs. Nhu objects the conciliatory approach of Mr Diem and accuses the monks of not real devout persons through an announcement. According to suggestion of the Information Minister Nguyen Dinh Thuan, Mr Diem has more than 3 times to neglect publishing that announcement, but at last he must yield it somehow and says that if it must be done, it would be published in a narrow scope. However, the announcement in English is put on “the Time of Vietnam”, “Journal d’Extreme Orient” and on Vietnamese newspapers with Vietnamese version.

    ( trang web Ngo The Linh)

  3. Cám ơn ông lam truong phong đã trích đoạn Anh ngữ trên Website của Ngo The Linh (không biết ông này là ai và đấy là tên thật hay bút hiệu ?). Theo tôi được biết thời Đệ I VNCH ông Nguyễn Đình Thuần chỉ giữ chức vụ Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống, kiêm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng và tạm giữ (acting) chức Bộ Trưởng Đặc Nhiệm Phối Hợp An Ninh khi chính phủ VN cải tổ ngày 28-5-1961 theo “SL 124/TTP”.

    Như ông Minh đã viết, khoảng năm 1959 hoặc 1960, bộ Thông Tin bị downsizing xuống chỉ còn là Tổng Nha Thông Tin. Ngày 14-11-1960, Dân Biểu Trần Văn Thọ được bổ làm Tổng Giám Đốc Nha Thông Tin. Trước đó khi còn là Bộ Thông Tin, ông Trần Chánh Thành langày 10-5-1955,

  4. Thành thật cáo lỗi quí vị. Đang gõ phím thì tôi nhấn lộn nút nên bài gởi “bị” đi thiếu đoạn cuối. Sau đó tôi có gởi lại nhưng không thấy bài hai xua’t hiện trên trang Web. Tôi xin viết lại đoạn thiếu.

    Trước đó khi còn là Bộ Thông Tin, ông Trần Chánh Thành được bổ nhiệm chức vụ Bộ Trưởng Bộ Thông Tin trong đợt chính phủ cải tổ ngày 10-5-1955 (SL 145CP).

  5. Trích dẫn một tài liệu khác từ Pentagon Papers, trong đó ông Nguyen dinh Thuan được ghi chức vụ là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng.

    Cablegram from United States Embassy in Saigon to the State Department 13 Oct. 1961, on requests by Nguyen Dinh Thuan, Defense Minister of South Vietnam.

    Source: The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 2, pp. 651-652

    http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon2/doc103.htm

  6. Kính gửi ông Nguyễn N. Hoàng, ông Minh, và một số ông bà gọi điện thoại tôi không ghi được tên: Quí ông, quí bà cho biết ông Bộ Trưởng Bộ Thông Tin trong bài Trường Hợp DƯƠNG QUỲNH HOA là ông Bác sĩ Trần Văn Thọ, nguyên dân biểu; năm ấy Bộ Thông Tin là Tổng Nha Thông Tin, Bác sĩ Trần Văn Thọ là Tổng Giám Đốc Tổng Nha Thông Tin. Xin cám ơn quí ông, quí bà.

  7. Góp ý với ông Thế Hùng.
    Ngô Thế Linh là cựu đại tá, chỉ huy trưởng Nha kỹ thuật (phòng 7 Tổng tham mưu), cư ngụ và mất ở Sanjose, Cali.
    Thông tin với sự dè dặt vì ông nầy không thấy tham gia trên web, thỉnh thoảng có đọc vài bài viết về ông. Có thể trang web của nhóm nha kỹ thuật đặt tên nầy để vinh danh ông.

  8. Hôm nay nhân đọc lại bài này,cháu xin nói thêm:Bác Sĩ Trần Văn Thọ làm Giám Đốc Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Lạt từ khoảng năm 1970 đến 1975(hoặc sau đó nữa,con không biết rõ!).Sau năm 75 không nghe nói gì về ông ta!
    Trong thời gian này dân Dalat ai cũng biết ông ta là chồng bà VC Dương Quỳnh Hoa.
    Ông BS này có ân oán với bố cháu vào khoảng năm 1973.

  9. Bà ta ra khỏi đảng năm 1979

Leave a comment